Tên Của Đóa Hồng
Tác giả: Umberto Eco
Dịch giả: Đặng Thu Hương
Nguyên văn tiếng Anh: The Name of the Rose
Chương 4: GẦN GIỜ KINH XẾ TRƯA & SAU KINH XẾ TRƯA
Cuộc mạn đàm uyên bác giữa William và dược thảo sư Severinus
Chúng tôi xuống đến gian giữa Giáo đường và theo lối cổng vào ban nãy đi ra ngoài. Đầu tôi vẫn còn vang vọng tất cả những câu nói của Ubertino.
- Người ấy… thật kỳ quặc, - tôi rụt rè nói với thầy William.
- Ông ấy là, hay đã từng là, một người vĩ đại trên nhiều phương diện. Nhưng chỉ vì nguyên do đó mà ông trở nên kỳ quặc. Chỉ có kẻ bần tiện mới bình thường. Ubertino có thể trở thành một trong những tên lạc đạo mà ông đã đưa lên giàn hoả, hay một Giáo chủ trong Giáo hội La Mã. Ông đến rất gần cả hai thái cực suy đồi đó. Khi ta nói chuyện với Ubertino, ta có ấn tượng rằng địa ngục là thiên đường nhìn từ một phía khác.
Tôi không nắm kịp ý thầy, bèn hỏi - Từ phía nào ạ?
- À, đúng thế, - thầy William nhận thức sự kiện – Đây là việc nhận biết xem có nhiều phía hay không, hoặc phải chăng chỉ có một khối toàn vẹn. Nhưng chớ để ý ta, và đừng nhìn cánh cửa nữa - Thầy nói và gõ nhẹ lên gáy tôi, khi tôi quay lại nhìn những hình tượng tạc mà tôi đã trông thấy lúc mới vào – Hôm nay chúng đã làm con đủ khiếp hãi rồi.
Khi tôi ngoái nhìn cổng vào, tôi trông thấy trước mặt một tu sĩ khác. Có lẽ trạc tuổi thầy William. Ông cười và niềm nở chào thầy trò tôi. Ông tự giới thiệu là Severinus, dược thảo sư, phụ trách nhà tắm, bệnh xá, vườn tược, và sẽ nhận mệnh lệnh của chúng tôi, nếu chúng tôi muốn tìm hiểu đường đi trong tu viện.
Thầy William cảm ơn và bảo rằng khi mới đến tu viện, thầy đã chú ý đến khu vườn xinh đẹp không chỉ trồng các loại rau ăn được, mà còn có các loại thảo dược nữa.
- Hạ sang, Xuân về, với đủ các chủng loại cây, mỗi loài rộ đua sắc, khu vườn ca vang lời xưng tụng Thượng đế - Severinus nói, hơi nuối tiếc – nhưng ngay trong tiết Đông này, đôi mắt của dược thảo sư vẫn nhìn xuyên qua các cành cây khô, nhận ra các loại cây sắp mọc, và có thể bảo Huynh rằng khu vườn này phong phú hơn bất kỳ vườn dược thảo nào, nhiều màu sắc hơn, đẹp như các minh hoạ trên các cột đá. Ngoài ra, những loài dược thảo quý cũng mọc trong mùa Đông, và tôi giữ các thứ thuốc hái được khác để sẵn trong các nồi ở phòng thí nghiệm. Cứ như thế, tôi dùng rễ cây me chua đất để chữa bệnh viêm xuất huyết, nước sắc rễ cây althea làm băng dán các bệnh ngoài da, đá mài chữa chàm, chặt và nghiền thân rễ cây rắn thành thuốc trị tiêu chảy và một số bệnh phụ khoa. Tiêu cũng là một loại thuốc tiêu hoá khác…
- Làm thế nào Huynh có nhiều dược thảo phong phú thích hợp với các loại khí hậu khác nhau?
- Một mặt, nhờ Thượng đế xếp bình nguyên của chúng tôi vào giữa vùng đồng cỏ phía Nam trông ra biển đón gió ấm, phía Bắc trông lên núi cao, hướng về rừng. Mặt khác, nhờ nghệ thuật, tôi đã học lõm bõm được theo ý các thầy tôi. Một số cây thậm chí vẫn mọc trái mùa được. Nếu Huynh để ý chăm sóc đến địa hình quanh chúng, tưới nước vun phân và theo dõi sự tăng trưởng.
- Nhưng Huynh cũng trồng các loại cây chỉ để ăn cho bổ phải không? - tôi hỏi.
- Chà, chú ngựa non của tôi, không có loại cây nào ăn bổ mà không giúp chữa bệnh tốt cả, với điều kiện phải biết dùng đúng liều lượng. Chỉ khi dùng quá liều mới gây bệnh. Hãy xét loại bí. Bản chất nó mát, nhiều nước và giải nhiệt, nhưng nếu chú ăn bí thối thì sẽ bị tiêu chảy và phải cột ruột bằng một miếng keo làm bằng nước muối và mù tạc. Thế còn hành tây? Nóng và nhiều nước, nếu dùng lượng nhỏ, chúng sẽ giúp cường dương, nhưng dùng liều cao sẽ khiến nặng đầu, phải chữa bằng sữa và giấm – Ông ranh mãnh nói thêm. – Đó là lý do tại sao một tu sĩ trẻ phải ăn in ít hành thôi. Thay vào đó nên ăn tỏi. Tỏi nóng và khô, chống ngộ độc. Nhưng đừng lạm dụng ăn nhiều quá, vì nó khiến óc mất tính khôi hài. Ngược lại, đậu ăn lợi tiểu và sinh mỡ, là hai điều rất tốt: nhưng chúng gây ác mộng. Tuy nhiên, vẫn ít hại hơn các loại cây khác. Cũng có vài loại thực sự khơi dậy những ảo giác tội lỗi.
- Loại nào? – tôi vồn vã hỏi.
- Ái dà, chú tu sinh của chúng ta muốn biết nhiều quá. Có những điều chỉ duy nhất dược thảo sư được biết mà thôi; nếu không bất kỳ kẻ vô tâm nào cũng có thể đi đây đó để tạo ra ảo giác, nói cách khác, họ có thể khoác lác về những cây thuốc.
- Nhưng Huynh chỉ cần một nhúm tầm ma - Thầy William nói – hay cây Olieribus là khỏi thấy ảo giác. Hy vọng Huynh có một ít cây thuốc quý này.
Severinus liếc trộm thầy William – Huynh cũng quan tâm đến ngành dược thảo à?
- Qua loa thôi, - thầy William khiêm tốn trả lời - Từ khi tôi tình cờ đọc quyển “Thao trường rèn luyện sức khoẻ”[1] của Ububchasym de Baldach… Tôi không biết ở đây có bản đó không?
- Một trong những tác phẩm đẹp nhất. Có rất nhiều minh hoạ chi tiết.
- Lạy Chúa. Và còn quyển “Sức mạnh của cỏ cây”[2] của Platearius?
- Quyển đó cũng có nữa. Và quyển “Về cây”[3] và quyển “Về rau cỏ”[4] của Aristotle đã được dịch bởi Alfred de Sareshel.
- Tôi cũng được biết Aristotle không thực sự viết công trình đó, - thầy William nhận xét - Người ta còn khám phá rằng ông không phải là tác giả quyển “Nguyên nhân”[5] nữa.
- Dầu sao chăng nữa, đó quả là quyển sách vĩ đại, - Severinus nhận định, và thầy tôi nhất trí ngay không hỏi thêm xem dược thảo sư đang nói đến quyển “Về rau cỏ” hay quyển “Nguyên nhân”. Cả hai quyển sách đó tôi đều không biết, nhưng theo cuộc đối thoại trên, tôi đoán rằng chúng hẳn độc đáo lắm.
- Tôi rất vui mừng, - Severinus kết luận - được nói chuyện trực tiếp với Huynh về dược thảo.
- Tôi lại còn vui hơn Huynh nữa, nhưng phải chăng chúng ta đang vi phạm luật giữ bí mật do dòng tu của Huynh đặt ra?
- Luật đó đã được áp dụng nhiều thế kỷ nay, theo yêu cầu của các cộng đồng khác nhau. Luật qui định được phép nghe giảng nhưng không được nghiên cứu. Tuy nhiên, Huynh biết dòng tu của chúng tôi đã tăng cường nghiên cứu việc đạo và đời như thế nào. Luật này cũng qui định thiết lập một tịnh xá tập thể, nhưng thỉnh thoảng các tu sĩ, cũng như chúng tôi, được quyền tĩnh tâm ban đêm, do đó phải dành cho từng người một phòng riêng. Luật rất khắt khe về việc giữ bí mật, vì trong số chúng tôi ở đây, không chỉ những tu sĩ làm việc chân tay, mà cả những người trí thức, cũng không được phép trò chuyện với các anh em khác. Nhưng chức danh đầu tiên và tối cao của tu viện chính là cộng đồng của các học giả. Và việc trau dồi các kho tàng trí thức tích luỹ được thường rất hữu ích cho các tu sĩ. Tất cả các cuộc trò chuyện về học vấn đều được xem là hợp lệ và có lợi, với điều kiện không được nói chuyện trong phòng ăn hay trong các giờ thánh lễ.
- Huynh có thường nói chuyện với Adelmo không? - thầy William đột nhiên hỏi.
Severinus không lộ vẻ ngạc nhiên – Tôi biết Cha Bề trên đã nói chuyện với Huynh. Không, tôi hiếm khi nói chuyện với Huynh đó. Huynh ấy chăm chú vào việc minh hoạ. Thế nhưng tôi cũng có dịp nghe Huynh ấy nói chuyện với các tu sĩ khác, chẳng hạn như Venantius hay Jorge về chuyên môn của mình. Ngoài ra, ban ngày tôi không làm việc ở phòng thư tịch mà ở phòng thí nghiệm của tôi – Ông hất hàm về phía bệnh xá.
- Tôi hiểu rồi, như thế Huynh không biết rõ Adelmo có bị ảo giác hay không?
- Ảo giác à?
- Giống như các loại ảo giác do dược thảo mà Huynh nói gây ra ấy mà.
Severinus sượng cứng người lại – Tôi đã nói với Huynh rằng tôi cất giữ tất cả các cây độc hại hết sức cẩn thận mà.
- Tôi không định ám chỉ điều đó, - thầy William vội vã biện bạch. - Tôi đang nói đến các ảo giác một cách tổng quát.
- Tôi không hiểu Huynh – Severinus nhấn mạnh.
- Tôi đang nghĩ đến khả năng một tu sĩ ban đêm lang thang trong Đại dinh, nơi mà Cha Bề trên đã từng công nhận những điều kinh khủng có thể xảy ra… cho những ai dám đột nhập vào giờ cấm… À, như tôi nói, tôi đang suy nghĩ đến khả năng Huynh ấy bị các ảo giác ma quỷ ám nhập, xúi giục đi đến vách núi đá đó.
- Tôi đã thưa với Huynh: tôi chỉ đến phòng thư tịch khi cần đọc sách, nhưng thường thì tôi có tập mẫu cây cất trong bệnh xá. Như đã nói, Adelmo rất gần gũi với Jorge, Venantius và … dĩ nhiên là với Berengar.
Ngay cả tôi cũng cảm nhận được vẻ ngập ngừng trong giọng nói của Severinus. Điều đó cũng không thoát được mắt thầy tôi.
- Berengar ư? Và tại sao lại “dĩ nhiên”?
- Berengar là phụ tá quản thư viện. Họ cùng trang lứa, đã cùng là tu sinh với nhau, họ có nhiều điều để chuyện trò với nhau cũng là việc bình thường. Đó là điều tôi muốn nói.
- À, đó là điều Huynh muốn nói - thầy William lặp lại. Tôi ngạc nhiên thấy thầy không theo đuổi đề tài này nữa mà khéo léo chuyển sang chuyện khác – Có lẽ đã đến lúc chúng ta đi thăm Đại dinh. Huynh có vui lòng dẫn đường chúng tôi không?
- Rất vui lòng, - Severinus nói, lòng mừng rỡ được thoát câu chuyện. Ông dẫn chúng tôi đi dọc theo khu vườn đến cửa Tây của Đại dinh.
- Đối diện với khu vườn là cánh cửa dẫn vào nhà bếp, nhưng nhà bếp chiếm phân nửa tầng trệt, mặt Tây; nửa mặt kia là nhà ăn. Ở cổng phía Nam mà Huynh có thể vào từ phía sau, chỗ dành cho ca đoàn trong giáo đường, còn có hai cánh cửa khác dẫn vào nhà bếp và phòng ăn. Nhưng ta có thể vào lối này, và từ nhà bếp, ta có thể sang tiếp nhà ăn.
Khi bước vào nhà bếp rộng bao la, tôi mới nhận thức được toàn bộ chiều cao của toà Đại dinh nằm trong khuôn viên khối bát giác. Về sau, tôi mới hiểu rằng, đó là một loại giếng khổng lồ không có lối vào, trên mỗi tầng mở ra những cửa sổ rộng, như các cửa sổ ở mặt ngoài. Nhà bếp là một sảnh đường rộng mênh mông ngập ngụa khói. Nhiều tôi tớ đang bận rộn sửa soạn thức ăn cho bữa tối. Trên một chiếc bàn lớn, hai người đang làm một cái bánh bằng đậu, lúa mạch, yến mạch, mạch đen, củ cải xắt nhỏ, cải đường, cải xoong, và cà rốt. Gần đó, một đầu bếp khác vừa ngâm xong vài con cá vào một dung dịch tổng hợp rượu vang và nước, rồi rưới lên chúng một loại nước sốt có lá sô thơm, rau mùi tây, húng tây, tỏi, tiêu và muối. Bên dưới ngọn tháp phía Tây có một cái lò khổng lồ dùng để nướng bánh mỳ đang rực đỏ. Trong ngọn tháp phía Nam có một lò sưởi thật lớn, trong đó người ta đang đun những cái nồi lớn sùng sục và trở các xiên thịt nướng. Những người chăn lợn vừa bước vào qua cánh cửa mở ra khu chuồng lợn sau giáo đường, mang theo thịt heo vừa mổ. Chúng tôi ra ngoài cũng bằng cửa đó để bước vào khuôn sân ở rìa phía Đông của bình nguyên, sát bức tường, nơi có nhiều dãy chuồng. Severinus giải thích cho tôi biết dãy đầu là chuồng lợn, rồi tới chuồng ngựa, chuồng bò, chuồng gà và sân có mái để nuôi cừu. Phía ngoài chuồng lợn, các người chăn lợn đang khuấy một vại lớn đựng huyết lợn, vừa mới mổ để huyết khỏi đông lại. Nếu khéo khuấy, huyết sẽ lỏng trong vài ngày nữa, nhờ thời tiết lạnh, và họ sẽ dùng nó làm tiết canh. Lúc quay vào Đại dinh và khi đi ngang qua nhà ăn, trên đường đến ngọn tháp phía Đông, chúng tôi liếc nhanh vào phía trong. Nhà ăn trải dài giữa hai ngọn tháp, trong ngọn tháp phía Bắc có một lò sưởi, ngọn tháp kia có một cầu thang xoắn ốc dẫn lên phòng thư tịch trên lầu. Các tu sĩ dùng cầu thang này để lên làm việc mỗi ngày hoặc họ có thể dùng hai cầu thang khác, tuy không tiện lợi bằng, nhưng rất ấm áp vì được xây theo hình trôn ốc bên trong lò sưởi này và trong lò bánh của nhà bếp. Thầy William hỏi xem chúng tôi có thể gặp ai ở phòng thư tịch không, vì hôm đó là Chủ nhật. Severinus mỉm cười đáp rằng, đối với tu sĩ dòng Benedict, công việc chính là cầu nguyện. Vào chủ nhật, giờ đọc kinh kéo dài hơn, nhưng các tu sĩ được giao công việc về sách vở vẫn làm việc vài giờ ở trên đó. Thường họ dành thời giờ để trao đổi với nhau các nhận định, lời khuyên và tư tưởng uyên bác, bổ ích trong Thánh kinh.
Chú thích[1] "Theatrum Sanitatis"
[2] "De virtutibus herberum"
[3] "De plantis"
[4] "De vegetalibus"
[5] "De causis"
SAU KINH XẾ TRƯA
Thăm phòng thư tịch, gặp gỡ nhiều học giả, người sao chép và ghi đề mục, cùng một tu sĩ già, mù đang chờ đợi bọn Phản giáo.
Khi chúng tôi leo lên lầu, tôi trông thấy thầy tôi đang quan sát các cửa sổ rọi ánh sáng cho cầu thang. Có lẽ tôi đang trở nên khôn ngoan như thầy, vì tôi lập tức nhận thấy vị trí cửa sổ rất khó cho người leo đến. Mặt khác, các cửa sổ của nhà ăn, vốn là các cửa sổ duy nhất ở tầng trệt trông xuống vách núi đá, dường như cũng rất khó leo đến, vì dưới cửa sổ chẳng có một loại đồ đạc nào.
Khi lên hết cầu thang, chúng tôi đi xuyên qua ngọn tháp phía Bắc và bước vào phòng thư tịch, rồi tôi bật lên tiếng kêu thán phục. Tầng này không ngăn làm đôi như tầng dưới, do đó, trước mặt tôi dàn trải toàn bộ không gian bao la của nó. Trần uốn cong, không cao quá, chống đỡ bằng các cột chắc chắn, ôm lấy một không gian chan hoà thứ ánh sáng đẹp nhất tràn vào từ ba cửa sổ khổng lồ, dọc theo mỗi chiều dài, từ các cửa sổ nhỏ hơn trên mỗi mặt ngoài của tháp, và từ tám cửa sổ cao hẹp đón ánh sáng từ khối giếng trung tâm hình bát giác.
Số lượng cửa sổ nhiều như vậy cho thấy gian phòng lớn sẽ thường xuyên rạng rỡ ánh sáng ngay cả vào buổi chiều Đông. Các ô cửa không sơn màu như cửa sổ ở giáo đường, và những tấm kính hình vuông trong suốt, khung bằng chì, cho tràn vào một thứ ánh sáng tinh khiết nhất, không hề bị ảnh hưởng bởi nghệ thuật của con người, và như thế giúp ánh sáng đạt được mục đích của mình là soi rọi cho những người đang đọc, đang viết. Trước đây, và tại nhiều nơi khác, tôi đã được thăm nhiều phòng thư tịch: nhưng chưa có nơi nào, trong làn ánh sáng chân thật tràn vào làm bừng sáng căn phòng, lại chiếu rạng đến như vậy, các nguyên lý tinh thần, vốn là hiện thân của ánh sáng, và sự rực rỡ, vốn là nguồn cội của tất cả các vẻ đẹp và học thức: thành tố gắn liền với sự cân đối, thể hiện trong cấu trúc căn phòng. Vì để tạo thành cái đẹp cần có ba yếu tố: trước hết là tính toàn vẹn hay toàn thiện, và vì lý do này, tất cả các sự vật không đầy đủ được xem là xấu; kế đó là sự cân đối hay sự hài hòa; cuối cùng là ánh sáng và sự rõ ràng, và quả thật chúng ta gọi các vật thể đẹp là các vật thể có màu sắc rõ ràng, xác định. Do cái đẹp tượng trưng cho sự yên hòa và do cái thiện, cái đẹp, cái yên hòa xoa dịu tâm hồn con người, bản thân tôi chợt cảm thấy một niềm vỗ về bao la, và tôi nghĩ rằng được làm việc nơi đây hẳn phải thích thú lắm.
Vào buổi chiều hôm ấy, trước mắt tôi hiện ra một phòng làm việc nghiên cứu thật vui vẻ. Sau này, tại thư viện thánh Gall, tôi có trông thấy một phòng thư tịch với cấu trúc tương tự và cũng tách biệt khỏi thư viện, nhưng không sắp xếp đẹp đẽ như ở đây. Các nhà nghiên cứu cổ học, quản thư viện, người ghi đề mục, và các học giả đang ngồi tại bàn giấy của mình, dưới mỗi cửa sổ lại có một bàn giấy. Vì có bốn mươi cửa sổ, bốn mươi tu sĩ có thể làm việc cùng một lúc, mặc dầu lúc đó có lẽ chỉ có khoảng ba mươi người mà thôi. Severinus giải thích rằng các tu sĩ làm việc ở phòng thư tịch được miễn dự các giờ kinh Xế sáng, kinh Trưa và kinh Xế trưa, do đó, ban ngày, họ không phải rời nơi làm việc, và họ chỉ ngưng công việc khi hoàng hôn xuống để dự kinh Chiều.
Các chỗ sáng nhất được dành riêng cho các nhà nghiên cứu cổ học, các chuyên gia minh họa giỏi nhất, các người viết đề mục và sao chép. Mỗi bàn giấy có đủ các vật dụng cần thiết cho việc sao chép và minh họa: sừng đựng mực, bút lông ngỗng đẹp mà vài tu sĩ đang chuốt bằng dao mỏng, đá bọt để vuốt giấy da, thước để kẻ hàng trên giấy. Trên đầu bàn giấy hơi dốc, bên cạnh người viết, có một bục đặt bản sách chép tay sắp được sao lại, trang sách được phủ bằng một tờ giấy có đục một khe nhỏ đóng khung dòng chữ đang được sao chép lúc đó. Vài người có mực vàng và mực đủ màu sắc. Các tu sĩ khác đang đọc sách, họ ghi các chú thích của mình vào sổ tay hay các bản gỗ.
Tuy nhiên, tôi không có thì giờ quan sát công việc của họ, vì quản thư viện đã bước đến. Chúng tôi biết ông ta là Malachi. Gương mặt ông ta biểu lộ một vẻ chào đón, nhưng tôi bất giác rùng mình khi nhận thấy một gương mặt kỳ quái như thế. Ông cao và cực kì gầy, tay chân to lớn vụng về. Khi ông sải bước tới, mình khoác chiếc áo đen của dòng tu, vóc dáng ông có một vẻ gì đó rất đáng sợ. Đầu ông vẫn đội mũ, vì vừa mới từ ngoài vào, che tối gương mặt xanh xao của ông, tạo cho đôi mắt to rộng buồn bã một vẻ đau khổ chịu đựng. Trên khuôn mặt ông có những đường nét, dường như trước đây chất chứa nhiều nỗi đam mê nay ý chí đã thuần hóa, nhưng lại khiến chúng trở nên băng giá, hay không còn sinh động nữa. Vẻ u buồn và khắc khổ bao trùm gương mặt ông và đôi mắt thật sắc bén đến nỗi chỉ cần liếc nhìn là có thể đâm suốt tim gan người đối diện và đọc được cả những suy nghĩ thầm kín. Vì thế, thật là khó chịu khi nhìn vào ánh mắt soi mói đó, và chẳng ai muốn nhìn vào mắt ông ta lần thứ hai.
Quản thư viện giới thiệu chúng tôi với các tu sĩ đang làm việc lúc đó. Đến từng người. Malachi kể cho chúng tôi nghe về công việc người ấy đang thực hiện, và tôi khâm phục tất cả mọi người về sự tận tâm của họ dành cho trí thức và việc nghiên cứu Phúc Âm. Qua đó, tôi đã gặp Venantius, dịch giả tiếng Hy Lạp và Ả Rập, người dốc lòng nghiên cứu Aristotle, bậc thông thái nhất của nhân loại. Benno, một tu sĩ trẻ từ Thụy Đan Na, đang nghiên cứu tu từ học, Aymaro, người sao chép các sách thư viện mượn được mới mấy tháng nay, và một nhóm nhà minh họa xuất xứ từ nhiều nước: Patrick xứ Clonmacnois, Rabano xứ Toledo, Magnus xứ Iona, Waldo xứ Hereford.
Danh sách có thể còn dài, nhưng tôi phải quay lại đề tài của cuộc tranh luận, vì từ đó nổi lên các biểu hiện hữu ích cho thấy nguyên nhân gây sự khó chịu kín đáo trong các tu sĩ, và các mối quan tâm chưa biểu lộ vẫn đè nặng lên các cuộc nói chuyện của chúng tôi.
Thầy tôi bắt đầu nói chuyện với Malachi, ca ngợi vẻ đẹp và sự làm việc cần cù trong phong thư tịch, hỏi thăm ông ta về thể thức tiến hành công việc tại đây, vì thầy tôi đã được nghe khắp nơi nói về thư viện và mong muốn được khảo sát các sách ở đây. Malachi trình bày với ông những gì tu viện trưởng đã cho biết: tu sĩ yêu cầu quản thư viện đưa quyển sách người ấy muốn tham khảo và viên quản thư viện sẽ lên lầu mang sách xuống, nếu lời yêu cầu hợp lý và thành khẩn. Thầy William hỏi làm cách nào ông ta có thể tìm ra các tựa sách xếp trong các kệ trên lầu. Malachi bèn đưa cho thầy xem một bản sách chép tay gồm nhiều tập ghi chi chít các danh mục, buộc chặt vào bàn giấy của ông ta bằng một sợi xích nhỏ bằng vàng.
Thầy William luồn tay vào bên trong áo tu, lần đến chỗ ngực áo phồng lên thành một cái túi, lôi ra một vật mà tôi đã nhìn thấy ông cầm trên tay hay đeo trên mũi trong cuộc hành trình của chúng tôi. Đó là một cái ống hình chạc, cấu tạo sao cho có thể nằm trên mũi người ta, như kiểu kị mã cưỡi ngựa hay chim đậu bám vào cành. Mỗi bên chạc, ở đằng trước mắt, có một khung kim loại hình bầu dục, giữ một mảnh kính dày như đáy chai. Thầy William thích đeo vật này trước mắt để đọc sách, bảo rằng nó giúp tăng thị lực tự nhiên và phụ trợ đôi mắt lão của thầy nhìn rõ hơn, đặc biệt khi trời chạng vạng tối. Nó không giúp thầy nhìn vật ở xa, vì mắt thầy rất sắc, mà giúp thầy nhìn vật ở gần. Với cặp kính này, thầy có thể đọc những bản thảo viết chữ bé tí xíu mà ngay cả tôi đọc cũng khá khó khăn. Thầy giảng giải cho tôi rằng, khi một người đã qua tuổi trung niên, dù thị lực người ấy vẫn luôn luôn tốt, thì đôi mắt và đồng tử bắt đầu đờ dần; do đó, sau năm mươi tuổi, nhiều học giả xem như đã mất khả năng đọc, viết. Đó là một nỗi bất hạnh to lớn đối với những người còn có thể dâng hiến những thành quả tri thức tốt nhất của mình thêm nhiều năm nữa. Do đó, ta phải tạ ơn Chúa vì đã có người phát minh và cấu tạo nên vật dụng này. Thầy đã kể cho tôi nghe việc này để ủng hộ các tư tưởng của giáo sư Roger Bacon của thầy, người đã dạy rằng mục tiêu của việc học cũng chính là nhằm kéo dài cuộc đời con người.
Các tu sĩ khác nhìn thầy William hết sức hiếu kỳ, nhưng không dám hỏi han chi. Tôi để ý thấy ngay tại một nơi vẫn hằng tự hào là nhiệt tâm dốc lòng vào việc đạo và viết sách, vật dụng hiếu kỳ này vẫn chưa hề xuất hiện. Tôi cảm thấy hãnh diện được ở bên con người đã sở hữu một vật làm sững sờ những nhà thông tuệ lừng danh trên thế giới. Đeo vật này lên mắt, thầy William cúi xuống đọc các danh mục ghi trong tập sách. Tôi cũng nhìn vào và thấy trong đó các tựa sách chúng tôi chưa hề nghe nói đến, và các quyển sách nổi tiếng khác mà thư viện sở hữu.
Thầy tôi đọc, - “Về tòa ngũ giác của Salomon”[1], “Nghệ thuật nói và hiểu trong ngôn ngữ Do Thái”[2], “Về những vật kim khí”[3] của Roger de Hereford, “Đại số”[4] của Alkuwarizmi do Robertus Anglicus dịch từ tiếng La Tinh, “Nghệ thuật nghi binh”[5] của Silius Italicus, “Những chiến công của người Pháp”[6], “Về những lời ngợi ca cây thánh giá”[7] của Rabanus Maurus và “Các thời đại của thế giới và văn chương con người qua những quyển sách đặc biệt từ A đến Z”[8] của Flavius Claudius Giordanus. Những tác phẩm tuyệt diệu! Nhưng chúng được liệt kê theo thứ tự nào? Thầy trích dẫn một câu tôi không biết ở quyển sách nào, nhưng chắc chắn phải quen thuộc với Malachi – “Quản thư viện phải có danh sách tất cả các tựa, được sắp xếp cẩn thận theo thứ tự đề tài và tác giả, và sách phải được phân loại trên kệ có bảng số”. Huynh làm thế nào biết vị trí sắp xếp của từng quyển sách?
Malachi chỉ thầy xem vài chú thích ghi trên cạnh mỗi tựa sách. Tôi đọc: “iii, IV gradus, V inprima graecorum”; "ii, V gradus, VII in tertia anglorum”, v.v... Tôi hiểu số thứ nhất chỉ vị trí của quyển sách trên kệ hay gradus, số thứ hai chỉ vị trí kệ, trong khi đó số thứ ba chỉ vị trí ngăn; tôi cũng hiểu những nhóm từ khác chỉ phòng hay hành lang của thư viện, bèn lấy can đảm hỏi thêm về các chi tiết phân biệt cuối cùng đó. Malachi nghiêm khắc nhìn tôi... – Có lẽ con không biết, hay đã quên rằng Quản thư viện là người duy nhất được lên thư viện. Do đó, chỉ cần một mình Quản thư viện biết cách đọc những kí hiệu đó.
- Nhưng các tựa sách liệt kê trong danh sách này được sắp xếp theo trật tự nào? – thầy William hỏi – Theo tôi, dường như không phải theo đề tài. - Thầy không nêu lên thứ tự tác giả theo mẫu tự chữ cái, vì đó là một hệ thống tôi mới thấy áp dụng những năm gần đây thôi, còn khi đó thì rất hiếm sử dụng.
- Thư viện được thành lập từ thuở xa xưa, và sách được đăng kí theo thứ tự lúc nhận được, do tặng hay nhập vào thư viện.
- Như thế sẽ khó tìm lắm – thầy William nhận xét.
- Đủ để quản thư viện nhớ chúng nằm lòng, và biết mỗi quyển sách nhập thư viện vào thời gian nào. Đối với các tu sĩ khác, họ có thể tin cậy vào trí nhớ của người quản thư, - ông ta nói như thể đang bàn luận về một người nào khác chứ không phải chính ông, và tôi nhận ra ông đang nói đến nhiệm vụ mà ông không xứng đảm trách, nhiệm vụ đã được hàng trăm bậc tiền bối khác phụ trách, những người đã lần lượt truyền hiểu biết của mình cho thế hệ kế tiếp.
- Tôi hiểu rồi. Giả sử tôi cần tìm một quyển sách nào đó nhưng không biết chính xác tựa, chẳng hạn về “Tòa ngũ giác của Salomon”, Huynh có khả năng cho biết tựa sách tôi vừa mới nêu đó hiện có hay không, và Huynh có thể xác định vị trí nó ở đâu trên lầu không?
- Nếu Huynh thực sự phải tìm hiểu điều gì đó về “Tòa ngũ giác của Salomon”. Nhưng trước khi giao sách cho Huynh, tôi cần xin ý kiến của tu viện trưởng.
- Tôi được biết rằng một trong các họa sĩ minh họa giỏi nhất của Huynh vừa mới mất – thầy William nói tiếp – tu viện trưởng đã kể cho tôi nghe rất nhiều về nghệ thuật của người ấy. Vậy tôi có thể xem các bản sách mà Huynh ấy đang minh họa dở dang chăng?
- Vì còn trẻ, Adelmo... – Malachi nói, ngờ vực nhìn thầy William – chỉ minh họa các ghi chú ở lề. Huynh ấy có một óc tưởng tượng sống động và từ các vật thể quen thuộc, Huynh ấy có thể sáng tác những vật thể mới lạ, như có thể nối một thân người với một cái cổ ngựa. Sách của Adelmo ở đằng kia, chưa có ai động đến bàn giấy của Huynh ấy cả!
Chúng tôi đến gần chỗ trước kia là nơi làm việc của Adelmo, trên đó vẫn còn các trang Thánh thư dày đặc minh họa. Đó là các trang giấy da bê đẹp nhất, loại giấy hảo hạng, và trang cuối vẫn còn gắn vào bàn giấy. Sau khi được cạo bằng đá bọt và nhồi phấn cho mềm, giấy được bào nhẵn và từ các lỗ nhỏ tí đục bằng bút sắt nhọn đầu trên lề trang giấy, có thể nhận ra tất cả các đường nét hướng dẫn cho bàn tay nghệ sĩ. Nửa trang đầu đã viết đầy đủ và tu sĩ quá cố đã bắt đầu phác thảo các minh họa ở ngoài lề.
Các trang khác, ngược lại, đã hoàn tất xong; và khi chúng tôi ngắm nhìn, thầy trò tôi không ngăn được tiếng kêu thán phục. Đó là một thánh thư mà các lề giấy của nó khắc họa một thế giới trái ngược với thế giới mà lý trí chúng tôi hằng quen thuộc. Từ lề của bài giảng đạo hiện ra một vũ trụ đảo lộn: chó chạy trốn thỏ, nai săn sư tử... lưng thú mọc tay người, rồng có da ngựa vằn, người không có tay, trên lưng mọc các thân người khác như các cục bướu; những hình người với miệng đầy răng trên bụng, người đầu ngựa và ngựa chân người, cá cánh chim và chim đuôi cá, quái vật một thân hai đầu hay một đầu hai thân, bò đuôi gà, cánh bướm; đàn bà đầu có vẩy như lưng cá; những sinh vật ma quỷ cổ dài vô tận. Đây là một mẫu tự bẻ thành hình chữ L, ở phía dưới phát sinh mặt con rồng. Kia là mẫu tự to tướng hình chữ V, bắt đầu bằng từ “Verba”, từ thân chữ tự nhiên mọc ra một con rắn có ngàn đuôi, các đuôi này lại sinh ra các con rắn khác như những chùm hoa lá. Bên cạnh Thánh thư là một quyển sách thanh tú về giờ lễ, mới vừa hoàn tất xong, với kích thước nhỏ bé khó tưởng tượng nổi: có thể đặt nó vừa trong lòng bàn tay. Chữ viết nhỏ tí xíu, các minh họa bên lề thoạt nhìn chẳng thấy gì, do đó buộc phải dí sát tận mắt mới nhìn ra được vẻ đẹp. Toàn bộ lề sách dầy đặc những dạng chữ nhỏ lần lượt phát sinh ra nhau từ một cuộn giấy vô tận kẻ chữ đẹp như thể theo luật bành trướng tự nhiên: các ngư nhân, hươu đực đánh nhau, quái vật đuôi rắn, mình dê đầu sư tử, những thân người cụt tay mọc ra từ trong các dòng thư như ốc sên. Tại một điểm nọ, như thể nối tiếp ba chữ “Thánh, Thánh, Thánh” được lặp lại trong ba câu thơ, có ba con thú đầu người rất dữ tợn, hai con trong bộ ba khom người, một con cúi xuống, một con ngẩng lên để hôn nhau, một nụ hôn mà nếu người ta không tin rằng minh họa này dành cho một ý nghĩa tinh thần sâu sắc, tuy không rõ ràng, của dòng thơ lúc đó, thì người ta sẽ gọi ngay rằng đó là một nụ hôn gớm ghiếc.
Khi tôi giở sách xem, lòng tôi vừa thầm khâm phục, vừa muốn phá lên cười, vì các bức tranh vẽ rất ngộ nghĩnh, dù chúng minh họa cho các trang Thánh thư. Sư huynh William mỉm cười xem xét các minh họa này và nhận định: - Cách vẽ này ở quê tôi gọi là Babewyn.
- Ở Gaul thì họ gọi là Babouins, - Malachi nói, - Adelmo học nghề này ở quê hương của Huynh, dù Huynh ấy cũng có học ở Pháp. Babouins cũng có nghĩa là “khỉ” ở Phi châu. Những hình dạng của một thế giới lộn ngược: nhà đứng trên đỉnh tháp và đất nằm trên trời
Tôi nhớ lại một số câu thơ dân gian ở quê tôi và tôi buột miệng đọc:
Ngợi ca mọi kì quan Tồn tại trên trời dưới đất Cho ta chiêm ngưỡng. Malachi đọc tiếp, trích dẫn cũng từ bài thơ đó:
Đất ở dưới trời Đã thành lời ca Kỳ quan chỉ là Một điều kinh ngạc.
- Giỏi lắm, Adso ạ! – Quản thư viện tiếp – Quả thật những hình ảnh đó kể về đất nước, nơi con đến, cỡi trên lưng một con ngỗng xanh, nơi mà diều hâu bắt cá trong suối, gấu ăn chim ưng trên trời, tôm tung cánh với bồ câu và ba ông thần khổng lồ mắc bẫy rồi bị gà mổ.
Một nụ cười nhè nhẹ nở tươi đôi môi ông ta. Các tu sĩ khác nãy giờ vẫn e thẹn theo dõi cuộc đối thoại, bật cười sảng khoái, như thể bấy lâu nay họ vẫn đợi Quản thư viện đồng ý. Ông nhíu mày, nhìn các tu sĩ cười, vừa ca ngợi kỹ năng của Adelmo quá cố, vừa chỉ cho mọi người xem các hình lạ lùng khác. Trong khi tất cả vẫn đang cười đùa thì từ phía sau lưng chúng tôi bỗng cất lên một giọng nói khiêm khắc và trịnh trọng:
- Không nói những lời vô nghĩa và để cho người ta cười giễu.
Chúng tôi quay lại. Người vừa nói là một tu sĩ lưng đã còng vì năm tháng, tóc bạc trắng như tuyết, da mồi trắng và cả gương mặt lẫn đồng tử đều trắng. Tôi nhận thấy ông bị mù. Dù cơ thể già yếu, giọng ông ta vẫn sang sảng, chân tay còn mạnh khỏe. Ông nhìn như trông thấy được chúng tôi, và từ đó trở đi, lúc nào tôi cũng thấy ông di chuyển, nói năng một cách tinh tường. Nhưng giọng nói của ông là giọng của một người duy nhất nắm được tài tiên tri.
- Người mà Sư huynh đang thấy đấy, con người đáng kính cả về tuổi tác lẫn tri thức – Malachi nói với thầy William, tay chỉ về phía người mới đến – chính là Jorge de Burgos. Cao tuổi hơn hết thảy mọi người sống trong tu viện, ngoại trừ Alinardo. Huynh ấy là người được rất nhiều tu sĩ ở đây vẫn xưng tội kín để ký thác gánh nặng tội lỗi của họ. – Nói đoạn, Malachi xoay về phía ông lão, tiếp – Người đang đứng trước mặt Huynh là Sư huynh William xứ Baskerville, khách của chúng ta.
- Hy vọng Huynh không giận lời tôi nói – Ông sẵng giọng đáp – Tôi nghe mọi người nói những việc buồn cười, và tôi nhắc nhở các Huynh một trong các nguyên tắc của luật đạo. Như người soạn Thánh thư đã nói, nếu một tu sĩ phải kiềm chế không được nói tốt vì đã trót thề giữ bí mật, thì anh ta càng phải tránh không được nói bậy. Vì nói bậy cũng có những hình ảnh bậy và chúng là những thứ nấp dưới lớp vỏ của tạo hóa, dựng nên một thế giới đối nghịch với thế giới đứng đắn hằng tồn tại và sẽ mãi mãi tồn tại thêm nhiều thế kỷ nữa cho đến ngày tận thế. Nhưng Huynh thuộc một dòng tu khác và tôi nghe rằng ở đó người ta được phép cười đùa, dù là đùa lúc không thích hợp nhất – Ông đang lặp lại những điều các tu sĩ dòng Benedict nói về tính khí lạ thường của thánh Francis de Assisi, và có lẽ cả những cơn bốc đồng kỳ quái vẫn gán cho tất cả mọi loại thầy tu Nghèo khó và tu sĩ dòng Thánh thần, các chi nhánh mới đây của dòng Francisco. Nhưng thầy William tỏ vẻ chẳng hiểu gì lời ám chỉ đó.
- Các hình ảnh bền lề thường gây cười, nhưng chính nhằm soi sáng cứu cánh. Tương tự như trong các bài giảng, nhằm khơi dậy óc tưởng tượng của các con chiên ngoạn đạo, cần phải tạo ra các hình mẫu, thường là rất buồn cười, do đó trong chương trình cũng cho phép những bài giảng dùng các hình ảnh tạp nham này. Vì mọi đức hạnh và tội lỗi đều có thí dụ lấy ra từ loài vật, và từ loài vật người ta minh họa ra thế giới loài người.
- À, phải đấy – Jorge nói một cách châm biếm, nhưng vẫn giữ mặt nghiêm, - bất kỳ hình ảnh nào cũng gợi lên đức hạnh cao cả, với điều kiện công trình hoàn mỹ của tạo hóa phải cúi đầu quay đi để trở thành đề tài cho người ta cười giễu. Và như vậy, người ta minh họa phúc âm bằng những hình ảnh lừa chơi đàn lia, cú lấy khiên cày ruộng, bò tự buộc mình vào lưỡi cày, sóng tràn lên bờ, biển bốc cháy, sói biến thành ẩn sĩ! Dùng bò để đi săn thú, mời cú dạy người học văn phạm, cho chó cắn bọ chét, thằng chột canh thằng câm, và thằng câm xin bánh mì; kiến đẻ ra bò, gà quay bay, bánh mọc trên mái nhà, vẹt giảng về nghệ thuật hùng biện, gà mái đạp gà trống, xe đứng trước bò, chó ngủ trên giường, mọi người đi bằng đầu! Tất cả những thứ nhảm nhí ấy nhằm mục đích gì? Một thế giới đảo lộn và đối nghịch với thế giới do Thượng đế tạo ra, dưới cái cớ giảng dạy những lời giáo huấn thiêng liêng!
- Nhưng, như Thẩm phán tại tòa Areopagus ở Athens đã dạy – thầy William nhã nhặn nói, - chỉ có thể gọi tên Thượng đế qua những vật bị biến dạng nhất. Và Hugh ở St. Victor đã nhắc ta rằng sự so sánh càng khác biệt, sự thật càng được phơi bày dưới lớp vỏ của những hình dạng kinh sợ và khiếm nhã thì sự tưởng tượng lại càng ít bị sa vào những thứ nhục dục, và do đó sẽ hân hoan cảm nhận những điều huyền hoặc ẩn đằng sau các hình dạng xấu xí đó…
- Tôi đã biết lối lý luận đó, và tôi xấu hổ thừa nhận rằng đó chính là lối tranh luận chính trong dòng tu của chúng ta khi các Tu viện trưởng dòng Cluniac tranh đấu với dòng Cistercian. Nhưng thánh Bernard nói đúng: Kẻ họa hình quái vật và thiên nhiên để bộc lộ tạo vật của Chúa trong sự chiêm ngưỡng huyền bí sẽ dần dà thích thú chính bản thân của lũ quái vật hắn đã tạo ra, rồi mê mẩn chúng và hậu quả là hắn sẽ chỉ toàn nhìn thấy chúng. Các Huynh, những người vẫn còn đang sáng suốt, chỉ cần nhìn vào những cái cột của giáo đường, - ông ta chỉ tay ra ngoài cửa sổ, về phía nhà thờ… - Trước mắt một tu sĩ kính đạo, những sư tử kia, các nhân mã nọ, những con độc cước nửa-người-nửa-thú, miệng ở bụng, tai to như buồm đó có ý nghĩa gì chứ? Những con hổ đốm, những tên giác đấu, lũ thợ săn thổi tù và cùng rất nhiều quái vật một đầu nhiều thân và một thân nhiều đầu kia là gì cơ chứ? Bây giờ tu sĩ thích đọc cột cẩm thạch hơn đọc sách, thích chiêm ngưỡng công trình nhân tạo hơn nghiền ngẫm luật tạo hóa. Nhục nhã thay khát vọng cho đôi mắt và nụ cười của các Huynh!
Jorge hết hơi ngừng lại. Tôi thán phục trí nhớ minh mẫn đã giúp ông ta, tuy đã mù nhiều năm nay, vẫn còn nhớ rõ các hình ảnh mà ông đã từng công kích là độc ác. Tôi đâm nghi ngờ rằng khi nhìn thấy các hình ảnh này, ông cũng bị chúng mê hoặc, vì cho đến nay ông vẫn có thể mô tả chúng một cách cuồng nhiệt như thế. Nhưng tôi vẫn thường đọc được các đoạn mô tả tội lỗi cám dỗ nhất trong các trang sách của những nhà đạo đức phẩm hạnh nhất, những người đã tố cáo ma lực và các hậu hoạn của nó. Đó là một dấu hiệu cho thấy các nhà đạo đức này hết sức nhiệt tình muốn chứng tỏ rằng vì lòng yêu Chúa, họ không ngần ngại gán cho tội lỗi tất cả mọi cám dỗ mà nó đã khoác vào; do đó, họ mách cho những người khác những cách mà tội lỗi đã dùng để quyến rũ họ. Thực tình mà nói, lời của Sư huynh Jorge khiến lòng tôi tràn ngập niềm khao khát được xem các con hổ, con khỉ… trong giáo đường, mà tôi chưa từng được chiêm ngưỡng; nhưng ông ta đã cắt đứt dòng tư tưởng của tôi, tiếp tục nói với giọng trầm tĩnh hơn:
- Chúa không cần sử dụng những điều ngu xuẩn như vậy để chỉ cho chúng ta con đường nhỏ hẹp. Trong các chuyện ngụ ngôn của Ngài, chả có gì gây cười, gây sợ hãi. Ngược lại, Adelmo, người mà các Huynh đang thương tiếc, đã quá thích thú với những con quái vật vẽ được đến nỗi đã không còn nhận ra mục đích tối cao mà các quái vật này cần minh họa – giọng ông ta trở nên nghiêm trang và đe dọa – Huynh ấy đã theo tất cả, tôi phải nói tất cả, con đường ma quỉ. Thượng đế đã biết cách trừng phạt!
Im lặng nặng nề. Venantius bạo dạn cất tiếng:
- Thưa Sư huynh Jorge kính mến, đức hạnh của Huynh khiến Huynh thiếu công tâm. Hai ngày trước khi Adelmo chết, Huynh đã có mặt trong một cuộc tranh luận uyên bác tại ngay phòng thư tịch này. Adelmo rất cẩn thận sử dụng nghệ thuật và các hình ảnh quái dị của Huynh ấy như một công cụ của trí tuệ, của những vật thiêng để hướng đến sự vinh danh Chúa. Vừa mới đây Sư huynh William đã nhắc đến Thẩm phán Tòa Areopagus, người đã bàn đến việc học đạo qua những hình thù biến dạng. Ngày hôm đó, Adelmo đã trích lời một quan chức cao cả khác, bác sĩ Aquino, ông bảo rằng các thánh thể nên được miêu tả bằng các hình thù ác độc hơn là các hình thù thanh cao. Thứ nhất, vì tinh thần con người sẽ dễ thoát khỏi lầm lỗi hơn; quả thật rõ ràng rằng có một số đặc tính nhất định không thể ghép vào các thánh vật được và sẽ trở nên bất định, nếu miêu tả chúng bằng các sự vật cụ thể cao quý. Thứ hai, vì cách miêu tả thô thiển này phù hợp với trí thức của chúng ta về Thượng đế trên trần gian hơn. Thứ ba, với cách này, các sự vật của Thượng đế được che giấu khỏi mặt bọn tiểu nhân một cách tốt hơn. Nói khác đi, ngày hôm đó, chúng ta đang bàn luận về vấn đề cần hiểu xem sự thật đã được bộc lộ qua những phương tiện diễn đạt bất ngờ, vừa khôn ngoan, vừa bí ẩn như thế nào. Tôi đã nhắc Huynh ấy rằng trong tác phẩm của đại triết gia Aristotle, tôi đã tìm thấy những lời rất rõ ràng về vấn đề này.
- Tôi không nhớ, - Jorge gạt phắt ngang – tôi đã già quá rồi. Tôi không còn nhớ gì nữa. Có lẽ tôi đã nghiêm khắc thái quá. Thôi trời đã tối quá rồi, tôi phải đi đây.
- Thật lạ là Huynh lại không nhớ, - Venantius nhấn mạnh – đó là một cuộc tranh luận rất hay và uyên bác, cả Benno và Berengar cùng tham dự. Vấn đề đặt ra là các cách ẩn dụ, chơi chữ và câu đố, mà dường như cũng do các nhà thơ đặt ra chỉ để cho vui, chẳng lẽ không dẫn chúng ta đến cách tư duy mới, bất ngờ; và tôi đã nói đây cũng là một đức tính mà một người khôn ngoan cần có…và Malachi khi đó cũng có mặt…
- Nếu Huynh Jorge đáng kính không nhớ, hãy kính trọng tuổi tác và trí tuệ mệt mỏi của người… trước đây vốn luôn luôn minh mẫn. – Một tu sĩ vẫn theo dõi cuộc thảo luận cất tiếng. Câu nói này được cất lên bằng một giọng lo lắng, ít nhất là lúc đầu. Người nói, khi vừa nhận ra rằng phát xuất từ sự kính trọng nung nấu đối với vị tu sĩ già, người ấy đang khiến mọi người chú ý đến sự yếu đuối của Huynh Jorge, đã từ từ nói chậm lại, và dứt lời hầu như bằng một tiếng thầm thì xin lỗi. Người nói, chính là Berengar xứ Arundel, phụ tá Quản thư viện. Đó là một thanh niên xanh xao, và khi quan sát anh ta, tôi nhớ đến lời Ubertino miêu tả Adelmo: đôi mắt Huynh ấy trông như mắt một mụ đàn bà dâm đãng. Xấu hổ vì mọi người đều quay nhìn mình, Berengar đan các ngón tay vào nhau như một kẻ muốn đè nén nội tâm căng thẳng.
Phản ứng của Venantius rất khác thường. Huynh nhìn Berengar đến nỗi người ấy phải cụp mắt xuống.
- Rất tốt, thưa Sư huynh, nếu trí nhớ là một ân sủng của Thượng đế thì khả năng quên cũng rất tốt, và cũng phải được kính trọng. Tôi kính trọng khả năng đó trong vị Sư huynh cao niên tôi đang hầu chuyện. Nhưng đối với Huynh, tôi mong Huynh hãy nhớ rõ hơn những việc đã xảy ra, khi chúng ta có mặt tại đây với người bạn thân mến của Huynh.
Tôi không biết giọng nói của Venantius có ám chỉ gì từ “thân mến” hay không. Nhưng quả thật tôi cảm thấy những người có mặt lộ vẻ bối rối. Mỗi người nhìn một hướng, và không ai nhìn Berengar, lúc ấy mặt đang đỏ như gấc. Malachi cất tiếng ngay, giọng ra lệnh:
- Đi thôi, Sư huynh William. Tôi sẽ chỉ Huynh xem các quyển sách hay khác.
Nhóm người bèn giải tán, tôi thấy Berengar nhìn Venantius với vẻ thù hằn, và Venantius nhìn lại, thầm lặng và thách thức. Thấy Sư huynh Jorge sắp đi, lòng tôi tràn ngập niềm tôn kính, bèn cúi xuống hôn tay người. Người đón nhận nụ hôn của tôi, đặt tay lên đầu tôi, rồi hỏi tôi là ai, khi tôi xưng tên, gương mặt người bừng sáng.
- Chú có một tên quý và rất đẹp. Chú có biết Adso ở Montier-en-Der không? – tôi thú nhận không biết và Sư huynh Jorge nói tiếp – ông ta là tác giả của quyển sách vĩ đại và đáng sợ “Quyển sách của tên phản chúa”[9], trong đó ông tiên đoán việc sẽ xảy ra, nhưng ông không được chú ý lắm.
- Quyển sách được viết cách đây hơn nghìn năm, và những việc đó không xảy ra… - Thầy William tiếp lời.
- Cho những ai thiếu mắt nhìn. – người tu sĩ mù nói, - tên Phản giáo đến bằng những lối chậm chạp, quanh co. Đã đến lúc chúng ta không cần đợi hắn, không phải vì các tính toán do các tông đồ đề nghị là sai lầm, mà vì chúng ta chưa học được nghệ thuật tính toán đó. – rồi Sư huynh hét lớn, mặt quay về hướng tiền sảnh, và phòng thư tịch dội lại tiếng hét đó – Hắn đang đến. Đừng phung phí những ngày cuối cùng của các Huynh để cười chế nhạo những con quái vật bé nhỏ có da lốm đốm và đuôi ngoằn ngoèo! Đừng phung phí bảy ngày cuối cùng!
Chú thích:[1] “De pentagono Salomonis”
[2] “Ars loquensdi el intelligendi in Lingua hebraica”
[3] “De rebus metallicis”
[4] “Algebra”
[5] “Punica”
[6] “Gesta francorum”
[7] “De laudibus sanctae crusis”
[8] “Flavii Claudi Giordani de aetate mundi et hominis reservatis singulis litteris per singulos libros ab A usque ad Z”
[9] "Libellus de Antichristo"
0 nhận xét:
Post a Comment