468x1000 Ads

Truyện

Ả Grêten thông minh

Ngày xưa có một cô ả nấu bếp tên là Grêten. Ả thường đi giày gót đỏ khi dạo chơi, ả ngó đông ngó tây, thích chí nghĩ bụng mình cũng vào loại xinh đấy chứ. Về đến nhà, ả cao hứng uống ngụm rượu vang; ả nếm tất cả các món ngon nhất ả đã nấu, nếm đến no nê. Ả nói :

- Người đầu bếp là phải biết món ăn mình nấu vị ra sao chứ ?

Một hôm, ông chủ bảo ả :

- Grêten này, tối nay nhà có khách. Mày hãy thịt hai con gà mái mà nấu cho ngon nhé.

Con quỷ và bà nó

Ngày xưa xảy một cuộc chiến tranh lớn. Nhà vua có rất nhiều lính, trả lương cho họ quá ít, không đủ để sống. Có ba người lính bèn rủ nhau đào ngũ.

"Nếu họ bắt được chúng ta, họ sẽ treo cổ chúng ta. Vậy thì làm thế nào bây giờ?", người thứ nhất nói.

Người thứ hai nói:

- Cách anh hãy trông cánh đồng lúa bát ngát kia. Nếu chúng ta trốn trong đó thì không ai có thể tìm thấy được chúng ta. Quân đội không được phép sục vào ruộng lúa. Ngày mai thì đơn vị mình đã chuyển quân đi nơi khác.

BA CHÀNG LÍNH NGỰ LÂM CHƯƠNG 52 Ngày đầu tiên trong cảnh giam cầm

Ba chàng lính ngự lâm
Tác giả: Alexandre Dumas
Dịch giả: Nguyễn Bản
Chương 52 Ngày đầu tiên trong cảnh giam cầm

Trở lại chuyện Milady, nàng vẫn trong tình trạng tuyệt vọng, tự đào cho mình một vực thẳm của những ý nghĩ tối tăm, một địa ngục tối tăm mà nàng đã hầu như bỏ lại niềm hy vọng ở cửa, bởi đây là lần đầu tiên nàng hoài nghi, lần đầu tiên nàng biết sợ.

Cả hai trường hợp, nàng đều không gặp may, cả hai trường hợp nàng đều bị phát hiện và bị phản bội, và cả hai trường hợp nàng đều thất bại chống lại thần định mệnh chắc hẳn do Thượng đế sai xuống để đánh nàng. D'Artagnan đã thắng nàng, kẻ đại diện cho sức mạnh vô địch của cái ác.

BA CHÀNG LÍNH NGỰ LÂM CHƯƠNG 51 Sĩ quan

Ba chàng lính ngự lâm
Tác giả: Alexandre Dumas
Dịch giả: Nguyễn Bản
Chương 51 Sĩ quan

Trong khi đó, Giáo chủ mong đợi những tin tức từ nước Anh nhưng chẳng thấy gì nếu không phải những tin tức gây bực mình hoặc hăm dọa.

Cho dù La Rochelle có bị vây chặt và thành công có vẻ đã chắc trong tay nhờ những biện pháp phòng ngự và nhất là con đê, không cho bất cứ con thuyền nào lọt vào thành phố bị bao vây, thì cuộc vây hãm vẫn cứ phải kéo dài thêm nữa và đó là một nỗi nhục lớn đối các binh chủng của nhà Vua, một sự bực mình lớn đối với Giáo chủ khiến ông ta không thiết gây rắc rối giữa Louis XIII và Anne Autriche nữa, đúng vậy, vì chuyện đó đã xong rồi, mà phải hàn gắn mối bất hòa giữa ông Bassompirre với Quận công Angoulême.

BA CHÀNG LÍNH NGỰ LÂM CHƯƠNG 50 Chuyện trò giữa ông em chồng với chị dâu

Ba chàng lính ngự lâm
Tác giả: Alexandre Dumas
Dịch giả: Nguyễn Bản
Chương 50 Chuyện trò giữa ông em chồng với chị dâu

Trong lúc Huân tước De Winter đóng cửa, khép cánh cửa sổ lại và kéo một chiếc ghế đến ngồi gần chiếc ghế bành của người chị dâu thì Milady mơ màng dọi mát vào trong sâu thẳm, mong có khả năng khám phá ra toàn bộ âm mưu mà chính nàng không thể thấy nổi dù chỉ lơ mơ, chừng nào nàng còn chưa biết mình bị rơi vào tay ai. Nàng biết rõ ông em chồng vốn nhà quý tộc thực sự, mê săn bắn, một con bạc lì lợm, táo tợn với đàn bà, nhưng về chuyện mưu mô thì còn dưới cả mức trung bình. Làm sao ông ta lại có thể phát hiện việc nàng tới đây, và cho bắt giữ nàng? Tại sao lại giữ nàng tại đây?

BA CHÀNG LÍNH NGỰ LÂM CHƯƠNG 49 Định mệnh

Ba chàng lính ngự lâm
Tác giả: Alexandre Dumas
Dịch giả: Nguyễn Bản
Chương 49 Định mệnh

Trong khi đó Milady điên cuồng giận dữ, gầm lên trên boong tàu như một con sư tử cái bị đưa xuống tàu, đã định lao xuống biển để trở vào bờ, bởi nàng không thể chịu nổi ý nghĩ bị D'Artagnan làm nhục, bị Athos đe dọa và phải rời nước Pháp và không trả thù được họ. Chả mấy chốc, ý nghĩ ấy hành hạ nàng đến mức mặc cho những gì khủng khiếp có thể đến với mình, nàng đã van nài viên thuyền trưởng ném nàng lên bờ nhưng thuyền trưởng đang lo trốn thoát khỏi tình thế giả mạo đặt giữa những hạm tàu Pháp và Anh, như con dơi giữa đàn chuột và bầy chim(1), đang hết sức vội vã sang tới nước Anh, một mực từ chối không tuân theo cái thói thất thường của đàn bà, mà chỉ hứa với người nữ hành khách, vốn được Giáo chủ đặc biệt gừi gắm, là nếu biển thuận và quân Pháp cho phép sẽ để bà ta cặp bến ở Brơtanhơ hoặc cảng Loriăng hoặc Brétx. Nhưng trong khi chờ đợi, gió lại ngược, biển động mạnh, phải cắt gió đi vát bờ.

Bạn cùng bàn

Bạn cùng bàn
Vụ án bốn học sinh lớp 12 A mất tích vẫn chưa có lời giải.

***

Chương 1

"Khi màn đêm nuốt chửng ánh sáng. Đừng tưởng rằng bóng tối sẽ ngự trị. Còn mặt trăng trên cao làm chứng. Cửa nhà ai kẽo cà kẽo cọt. Rèm lay lay, đèn điện phụt tắt. Giăng giăng sương mờ mờ nhân ảnh. Đom đóm bay lập lòe lập lòe. Chó tru vang, mèo cào mặt đất. Nó đang đến đồng hồ tích tắc. Chăn trùm kín vẫn như lạnh buốt. Nín thật sâu mà tim đập thình thình. Chiếc gương soi giữa nhà động đậy. Gầm giường nghe sột soạt móng tay cào. Tiếng khanh khách vang lên rờn rợn. Nó đến rồi đồng hồ kêu tích tắc."

BA CHÀNG LÍNH NGỰ LÂM CHƯƠNG 48 Việc gia đình

Ba chàng lính ngự lâm
Tác giả: Alexandre Dumas
Dịch giả: Nguyễn Bản
Chương 48 Việc gia đình

Athos đã tìm ra được từ: Việc gia đình. Việc gia đình không chịu sự điều tra của Giáo chủ. Việc gia đình không liên quan đến ai. Người ta có thể lo việc gia đình công khai trước mọi người.

Thế là Athos đã tìm ra được từ: Việc gia đình.

Aramis tìm ra ý tưởng: những tên hầu.

Porthos nghĩ phương kế. nhẫn kim cương.

Chỉ có D'Artagnan chẳng nghĩ ra kế gì, nhưng lại vẫn thường là người có nhiều sáng kiến nhất trong bốn người. Nhưng cũng phải nói, chỉ riêng cái tên Milady đủ làm chàng tê liệt.

- À mà có chứ, chàng đã tìm được người mua nhẫn kim cương.

Bữa điểm tâm ở nhà ông De Treville là một chuyện vui mừng mê ly. D'Artagnan đã có đồng phục ngự lâm. Vì cùng vóc người với Aramis vì Aramis được chủ hiệu sách trả hậu cho bài thơ của chàng, nên cái gì cũng sắm một đôi, và chàng đã nhường cho bạn mình một bộ quân trang hoàn chỉnh. D'Artagnan có lẽ đã tràn trề thỏa mãn ước nguyện nếu như chàng không nhìn thấy Milady vẫn ló ra như một đám mây đen ở chân trời.

Sau bữa điểm tâm họ thỏa thuận sẽ họp mặt tại lều của Athos và ở đó sẽ bàn nốt công việc.

D'Artagnan suốt ngày hôm đó đi khắp doanh trại để phô bộ trang phục ngự lâm quân.

Buổi tối, theo giờ đã ấn định, bốn người bạn tụ hội lại. Chỉ còn ba điều phải quyết định:

- Viết gì cho em chồng Milady. Viết gì cho con người khôn khéo ở Tours.

Những gã hầu nào sẽ mang thư đi.

Mỗi người đều hiến người hầu của mình. Athos nói về tính kín đáo của Grimaud, chỉ nói khi chủ tháo chỉ khâu ở miệng.

Porthos khoe sức lực của Mousqueton ở tầm cỡ có thể quật đổ bốn người bình thường. Aramis tin tưởng ở sự khôn khéo của Bazin, ca tụng bốc trời ứng viên của mình. Cuối cùng, D'Artagnan hoàn toàn tin tưởng vào sự can trường của Planchet, và nhắc lại chuyện hắn đã xử trí thế nào trong vụ việc gai góc ở Bulônhơ.

Bốn đức tính ấy giành giật nhau hồi lâu trong cuộc thi tuyển ngoạn mục.

- Không may thay - Athos nói - ta lại cần phái đi một người hội đủ cả bốn đức tính ấy.

- Nhưng tìm đâu ra được một người hầu như thế?

- Không thể tìm nổi - Athos nói - Tôi biết rõ mà. Ta lấy Grimaud vậy.

- Lấy Mousqueton.

- Lấy Bazin.

- Lấy Planchet: Planchet dũng cảm và khôn khéo, thế là có hai trong bốn phẩm chất rồi.

- Thưa các vị - Aramis nói - cái chính không phải là biết ai trong bốn gã là người kín đáo nhất, khỏe nhất, khôn khéo nhất, hoặc can trường nhất, cái chính là phải biết xem kẻ nào thích tiền nhất.

- Điều mà Aramis nói thật đầy ý nghĩa - Athos nói tiếp - Ta nên lợi dụng những tật xấu của con người chứ không phải là đức hạnh của họ - Thưa cha tu viện trưởng, ngài đúng là một nhà đạo đức học lớn?

- Hẳn rồi - Aramis nói - bởi không những ta cần được phục vụ tốt sao cho thành công, mà còn không để thất bại. Bởi trường hợp thất bại, lại là chuyện cái đầu, không phải đầu của người hầu đâu.

- Khẽ chứ, Aramis! - Athos nói.

- Đúng thế, không phải đầu bọn người hầu- Aramis nói tiếp - mà đầu người chủ và đầu cả mấy người chủ nữa! Bọn người hầu của chúng ta liệu có trung thành đến mức liều đời vì chúng ta không? Không!

- Tôi tin - D'Artagnan nói - tôi hầu như đảm bảo cho Planchet.

- Thế thì! Bạn thân mến, bạn hãy thêm vào lòng trung thành tự nhiên của hắn một món sộp vào làm cho hắn sống dễ chịu một chút, thay vì đảm bảo một lần, làm thế là đảm bảo gấp đôi đấy.

- Ôi, lạy Chúa? Dẫu sao các cậu cũng nhầm cả rồi - Athos vốn lạc quan khi đụng đến sự vật, lại bi quan khi đụng đến con người, nói - Họ sẽ hứa tràn đi để có tiền, và dọc đường nỗi sợ hãi sẽ ngăn họ hành động. Một khi đã cầm tiền, họ sẽ nắm lấy nó cho thật chắc. Nắm chắc rồi, họ sẽ thú nhận. Mẹ kiếp! Chúng ta không phải lũ con nít! Để sang được nước Anh (Athos hạ giọng) phải đi qua gần khắp nước Pháp nhan nhản bọn gián điệp và bọn chó má của Giáo chủ, phải có hộ chiếu để xuống tàu, phải biết tiếng Anh để hỏi đường tới London. Xem xem, tôi thấy điều này khó lắm.

- Chả khó tí nào - D'Artagnan kiên quyết chủ trương phải làm việc này cho kỳ được nói - Trái lại, tôi thấy dễ thôi. Mẹ kiếp, tất nhiên, nếu ta viết cho Huân tước De Winter những điều vượt qua chuyện nhà cửa, những nỗi hãi hùng về Giáo chủ.

- Khẽ chứ? - Athos nói.

- Những âm mưu những bí mật quốc gia, - D'Artagnan tiếp tục nói nhỏ theo lời nhắc nhở của Athos - Tất nhiên chúng ta sẽ bị bánh xe nghiến tươi tất cả(1) nhưng lạy Chúa, đừng quên, như anh đã nói, Athos ạ, chúng ta với mục đích duy nhất để khi Milady đặt chân tới London, ông ta loại ngay mụ không cho hại chúng ta. Tôi sẽ viết cho ông ta một bức thư đại khái như thế này…

- Để xem nào - Aramis nói, mặt đã sẵn vẻ phê phán

"Thưa ngài bạn thân mến"…

- À, hay lắm, bạn thân mến, với một người Anh - Athos ngắt lời mở đầu khá lắm! Hoan hô, D'Artagnan! Riêng với câu ấy cậu đã bị phanh thây thay cho bị nghiến sống rồi.

- Thế thì, thế này vậy: "Thưa ngài", gọn thế thôi.

- Cậu cứ gọi là "Thưa Huân tước" - Athos nắm vững các nghi thức nói.

"Thưa Huân tước, ngài còn nhớ khu vườn kín thả dê ở Luxembourg chứ?"Hay thật! Vườn Luxembourg lúc này ư? Người ta lại tưởng bóng gió Thái hậu?

- Viết thế mới thật là khéo! - Athos nói.

- Thế thì, đơn giản thôi vậy "Thưa Huân tước, ngài có nhớ một bãi kín nhỏ nào đó mà người ta đã tha mạng ngài?"

- D'Artagnan ơi là D'Artagnan - Athos nói - Cậu sẽ chỉ mãi mãi là một biên tập viên tồi, "Mà người ta đã tha mạng ngài".

- Thôi đi! - Ai lại đi viết thế. Người ta không nhắc những việc đó với một người lịch sự. Trách quên ơn là gây thù oán đó.

- Ôi! Bạn thân mến, - D'Artagnan nói - anh thật không thể chịu nổi, và nếu cứ phải viết dưới sự kiểm duyệt của anh, nói thật nhé, tôi thèm vào nữa.

- Cậu làm thế là đúng. Cậu hãy điều khiển cây súng và lưỡi gươm, bạn thân mến ạ, hai ngón đó thì cậu rất hào hoa, còn cây bút hãy chuyển cho ngài tu viện trưởng, nó liên quan đến ngài nhiều hơn.

- Ờ, đúng, phải rồi - Porthos nói - hãy chuyển bút cho Aramis, hắn ta viết luận văn bằng cả tiếng Latinh kia mà.

- Thôi được - D'Artagnan nói - Aramis, anh soạn thảo bức thư này đi. Nhưng thề có Đức Thánh cha giáo hoàng! Hãy viết cho chặt chẽ, bởi đến lượt tôi, tôi cũng sẽ vặt lông anh đấy, xin báo trước như vậy.

- Tôi không đòi hỏi gì hơn - Aramis nói với niềm tin ngây thơ mà mọi thi sĩ vốn có sẵn trong mình - Nhưng phải cho tôi biết rõ đã, tôi mới chỉ được nghe chỗ này, chỗ kia mỗi chỗ một tí, rằng con chị dâu đó là một con gian manh tôi cũng đã có bằng chứng khi nghe nó nói chuyện với Giáo chủ.

- Khẽ chứ nào, đồ quỷ! - Athos nói.

- Nhưng - Aramis tiếp tục - tôi không nắm được chi tiết.

- Tôi cũng vậy - D'Artagnan nói.

D'Artagnan và Athos im lặng nhìn nhau một lúc. Cuối cùng Athos sau khi đã tĩnh tâm lại và tái người đi hơn thường lệ vốn đã như thế, ra hiệu đồng ý, D'Artagnan hiểu mình có thể nói ra.

- Thế thì! Đây là điều phải nói ra - D'Artagnan nói tiếp - "Thưa Huân tước, chị dâu ngài là một mụ đàn bà hiểm độc, đã từng muốn giết ngài để hưởng gia tài của ngài. Nhưng mụ không thể lấy anh trai ngài, vì đã cưới chồng ở Pháp, và đã bị…

D'Artagnan dừng lại nhìn Athos như thể muốn tìm một từ.

- "Bị chồng đuổi", - Athos nói.

- "Bởi vì mụ đã từng bị đóng dấu chín" - D'Artagnan tiếp tục.

- Sao, mụ định giết người em chồng ư? Porthos kêu lên - - Không thể thế.

- Phải, thế đấy.

- Mụ đã từng có chồng? Aramis hỏi.

- Phải.

- Và chồng mụ đã phát hiện ra dấu bông huệ đóng chín trên vai mụ? - Porthos kêu lên.

- Phải.

Ba tiếng "phải" đều do Athos nói, mỗi tiếng giọng càng u uất hơn.

- Và ai đã nhìn thấy cái dấu hoa huệ đó? Aramis hỏi.

- D'Artagnan và tôi, hay đúng hơn, nếu theo trật tự niên giám là tôi và D'Artagnan - Athos trả lời.

- Và người chồng của con mụ ghê tởm đó còn sống? Aramis hỏi.

- Ông ta còn sống.

- Anh có chắc không?

- Tôi chắc chứ.

Một phút im lặng lạnh lùng, trong khi đó mỗi người đều cảm nhận riêng theo bản tính của mình. Athos là người đầu tiên phá vỡ sự im lặng, chàng nói:

- Lần này, D'Artagnan đã đưa ra cho chúng ta một chương trình hành động rất hay và trước hết ta phải viết thế đã.

- Anh nói đúng, Athos ạ - Aramis nói - và việc biên tập mới gai góc đây. Bản thân ông chánh án cũng sẽ bối rối khi soạn thảo một bức thư mạnh mẽ như thế, trong khi đó ông ta soạn thảo một bản án một cách dễ dàng. Thôi được, các người im đi để tôi viết Thế là Aramis cầm lấy bút, nghĩ vài phút, viết liền một mạch tám đến mười dòng, bằng nét chữ mềm mại duyên dáng của đàn bà, rồi bằng một giọng dịu dàng và chậm rãi như thể mỗi từ đã được cân nhắc chu đáo, chàng đọc:

"Thưa Huân tước,

Người viết mấy dòng chử này cho ngài đã có vinh dự được đọ gươm với ngài trong một mảnh đất kín ở phô Âm ty. Từ đó vì ngài đã từng nhiều lần muốn kết bạn với người đó, người đó có nghĩa vụ phải nhận ra tình bạn bằng một lời khuyên chân thành. Hai lần ngài suýt nữa đã trở thành nạn nhân của người họ hàng gần nhất mà ngài tin là người thừa kể, bởi vì ngài không biết trước khi kết hôn ở Anh, người đó đã từng cưới chồng ở Pháp. Nhưng lần thứ ba, tức lần này, ngài có thể bị giết hại. Mụ họ hàng đó ra đi từ La Rochelle trong đêm tối tới nước Anh. Ngài hãy giám sát mụ khi mụ tới, bởi mụ có những mưu toan to lớn và khủng khiếp. Nếu ngài nhất thiết muốn biết mụ ta có khả năng làm chuyện gì, xin ngài hãy xem cái quá khứ của mụ trên vai trái…"- Ồ, thế là tốt lắm rồi, Athos nói - cậu đúng là một cây bút cỡ đổng lý văn phòng Nhà nước, Aramis ạ. Bấy giờ Huân tước De Winter sẽ cảnh giác cao, đương nhiên nếu thư này đến tay ông ta, và không may nó có rơi vào tay Giáo chủ, thì chúng ta cũng sẽ không bị phương hại gì. Nhưng vì gã người hầu ra đi có thể chỉ dừng lại ở Saterlơrôn mà làm cho chúng ta tin đã đến London, ta chỉ trao bức thư và nửa số tiền, và hứa đưa nốt nửa kia, nếu có thư trả lời. Cậu vẫn còn cái nhẫn chứ?

- Còn hơn cả thế kia, tôi có tiền rồi.

- Và D'Artagnan ném cái túi lên bàn, nghe tiếng vàng kêu xủng xoảng, Aramis ngước mắt nhìn, Porthos giật mình, còn Athos vẫn bình thản như không. Chàng hỏi:

- Có bao nhiêu trong túi?

- Bẩy nghìn livrơ toàn tiền mười hai quan.

- Bảy nghìn livres? - Porthos kêu lên - Cái viên kim cương nhỏ hạng xoàng ấy mà giá bảy nghìn livrơ cơ à?

- Chắc là như thế - Athos nói - vì tiền một đống đây. Tôi không cho là anh bạn D'Artagnan của chúng ta bỏ thêm tiền của mình vào đâu.

- Nhưng, các vị ạ, trong mọi chuyện này, chúng ta không nghĩ gì đến Hoàng hậu. Vậy chúng ta hãy chăm lo một chút đến sức khỏe của ông Buckingham thân yêu của bà. Đó là điều tối thiểu ta phải làm.

- Chính thế - Athos nói -nhưng việc này liên quan đến Aramis.

Chàng ta đỏ mặt dáp:

- Thế thì tôi phải làm gì nào?

- Ồ - Athos nói tiếp - thật quá đơn giản - soạn thảo một bức thư thứ hai cho con người khôn khéo sống ở Tours.

Aramis lại cầm bút, lại nghĩ, và viết những dòng thư lập tức được các bạn hoan nghênh nhiệt liệt như sau: "Cô em họ thân mến…

- A! - Athos nói - ra con người khôn khéo đó là họ hàng của cậu - Em con cô ấy mà - Aramis nói.

- Vậy tiếp tục với em họ cậu đi!

Aramis tiếp tục đọc:

"Cô em họ thân mến, Đức ông Giáo chủ mà Chúa dành cho hạnh phúc của nước Pháp và sự lúng túng của kẻ thù vương quốc đang sắp kết liễu bọn phản nghịch tà đạo ở La Rochelle. Có thể hạm đội cứu viện quân Anh sẽ không đến kịp để tận mắt nhìn thấy. Tôi cũng không dám nói rằng tôi tin chắc ông De Buckingham sẽ bị ngăn trở bởi một sự cố lớn nào đó. Đức ông là một nhà chính trị lỗi lạc nhất trong thời gian qua. Ngài sẽ dập tắt mặt trời, nêu mặt trời làm vướng chân ngài. Hãy báo những tin vui này cho bà chị em, em thân mến ạ. Anh mơ thấy gã người Anh đáng nguyền rủa ấy bị chết. Anh không thể nhớ lại được là bởi dao găm hay thuốc độc. Có điều anh tin chắc là anh đã mơ thấy hắn bị chết, và như em đã biết đấy, những giấc mơ của anh không đánh lừa anh bao giờ. Em hãy yên tâm, không lâu nữa anh sẽ trở về".

- Tuyệt lắm - Athos nói - cậu là vua của các nhà thơ, Aramis thân mến ạ, cậu nói như Apôcalíp(2) ấy và cậu nói đúng như kinh Phúc âm. Giờ cậu chỉ còn việc ghi địa chỉ vào nửa thôi.

Dễ thôi mà - Aramis nói.

Chàng gập bức thư lại một cách tình tứ rồi viết: "Gửi cô Mítsông, cô thợ may ở thành Tours".

Cả ba người bạn cùng nhìn nhau cười: họ bị lừa, Aramis nói:

- Bây giờ, các vị đã hiểu chỉ Bazin mới có thể mang thư này đi. Cô em họ chỉ quen biết Bazin và chỉ tin anh ta. Bất kỳ ai khác đều làm hỏng việc. Hơn nữa, Bazin nhiều tham vọng và thông thái. Bazin đã đọc lịch sử, các vị ạ, hắn biết Xích Canh đã trở thành giáo hoàng sau khi đã từng chăn lợn con. Hắn cũng tính chuyệnthụ giáo như tôi chẳng qua vẫn hy vọng đến lượt hắn cũng trở thành giáo hoàng hoặc ít nhất cũng Giáo chủ. Các vị hiểu một người đã có những mục tiêu như thế sẽ không để bị tóm, hoặc nếu bị tóm, sẽ chịu tử đạo còn hơn khai ra.

- Tốt, tốt lắm - D'Artagnan nói - Tôi hoàn toàn đồng tình anh chọn Bazin. Nhưng anh ủng hộ tôi chọn Planchet đi. Ngày nào Milady đã dùng gậy phang hắn tống ra khỏi cửa mà Planchet thì nhớ dai lắm, và tôi xin đảm bảo, nếu gã thấy có thể trả thù được, thì thà hắn chịu để đánh gãy sống lưng chứ không chịu bỏ cuộc đâu! Nếu việc đi Tours là việc của anh, Athos ạ, việc đi London cũng là việc của tôi. Vậy tôi mong các vị hãy chọn Planchet, hơn nữa hắn đã từng đến London với tôi và biết nói rất chuẩn mấy câu: "London, sir, if want please and My master, lord D'Artangman" (London, thưa ngài, mong ngài làm ơn chỉ giúp và ông chủ tôi, ngài D'Artagnan). Với những điều đó, xin các vị yên tâm, hắn sẽ biết đường đi, đường về.

- Trong trường hợp ấy - Athos nói - Planchet cần được nhận bẩy trăm livrơ tiền đi và bẩy trăm livrơ tiền về còn Bazin ba trăm livres tiền đi và ba trăm livrơ tiền về. Như thế sẽ còn lại năm nghìn livres, mỗi người chúng ta cầm một nghìn livrơ để chi dùng riêng, còn để lại quỹ một nghìn livrơ mà cha tu viện trưởng sẽ giữ để chi những trường hợp đặc biệt hoặc nhu cầu chung. Như thế có được không?

- Anh Athos thân mến - Aramis nói - Anh nói cứ như ông Nétxto mà ai cũng biết là một nhà thông thái bậc nhất của Hy Lạp ấy.

- Vậy thì! Dứt khoát nhé - Athos nói lại - Planchet và Bazin sẽ đi. Tóm lại, tôi hoàn toàn vui vẻ giữ lại Grimaud, hắn đã quen tính nết chủ, tôi biết thế. Hôm qua chắc hắn đã hết vía, chuyến đi này sẽ chỉ làm hại hắn.

Họ cho gọi Planchet đến và cho hắn những chỉ dẫn. Hắn cũng đã được D'Artagnan báo trước, đầu tiên là vinh quang, tiếp đến là tiền bạc rồi đến hiểm nguy.

- Tôi sẽ giấu thư vào mép áo - Planchet nói - nếu bị bắt tôi sẽ nuốt ngay.

D'Artagnan nói:

- Ồ, thế thì anh không thể làm nổi nhiệm vụ này rồi.

- Vậy tối nay ông sao cho tôi một bản, mai tôi sẽ thuộc lòng.

D'Artagnan nhìn các bạn như muốn nói: "Thế nào! Tôi đã hứa với các anh mà?"

- Bây giờ - Chàng tiếp tục căn dặn Planchet - Anh có tám ngày để đến gặp Huân tước De Winter và có tám ngày để trở về đây, tổng cộng mười sáu ngày. Nếu đến ngày thứ mười sáu sau khi khởi hành, tám giờ tối, anh chưa về đến nơi, sẽ không có tiền, dù là tám giờ năm phút.

- Vậy thì ông chủ - Planchet nói - mua cho tôi một cái đồng hồ!

- Cầm lấy cái này! - Athos vừa nói vừa đưa cho hắn chiếc đồng hồ của mình rất hào hiệp vô tư - Và hãy là một chàng trai can trường. Hãy nghĩ rằng nếu ngươi nói, nếu ngươi ba hoa, nếu ngươi la cà, ngươi sẽ làm chủ ngươi bị chặt cổ, mà chủ ngươi lại hết sức tin tưởng ở long trung thành của ngươi và đảm bảo cho ngươi. Nhưng cũng cần nghĩ nếu do lỗi của ngươi, gây tai họa cho D'Artagnan, ta sẽ tìm lại được ngươi ở bất cứ nơi đâu, và sẽ phanh thây ngươi.

- Ồ, thưa ông - Planchet nói, vừa thấy tủi vì bị nghi ngờ và nhất là hoảng sợ về sự bình thản của Athos.

- Và ta - Porthos trợn tròn mắt lên - nên biết ta sẽ lột da mày.

- Ôi, thưa ông!

- Còn ta - Aramis nói bằng một giọng dịu dàng và du dương ta sẽ thiêu người dưới lửa nhỏ như một tên mọi rợ.

- Ôi, thưa ông!

Và Planchet òa khóc, không biết do sự hãi trước những lời hăm dọa đối với hắn hay vì cảm kích khi thấy bốn người bạn gắn bó chặt chẽ với nhau đến thế.

D'Artagnan cầm tay và ôm hôn hắn và bảo:

- Thấy chưa, Planchet, các ông ấy nói với ngươi như vậy là vì quý ta, nhưng trong thâm tâm lại yêu mến ngươi.

- Ôi thưa ông? - Planchet nói - hoặc tôi sẽ hoàn thành hoặc cứ cắt tôi ra làm bốn. Cứ việc cắt tôi ra làm bốn, ông cứ tin là không còn sót mảnh nào chịu khai báo đâu.

Chàng quyết định tám giờ sáng hôm sau, Planchet sẽ ra đi cốt để như Planchet đã nói với chàng, đêm có thể học thuộc lòng bức thư. Vậy là hắn có mười hai tiếng đồng hồ để lo việc học. Và phải trở về lúc 8 giờ tối ngày thứ mười sáu.

Sáng hôm sau lúc hắn sắp lên ngựa, D'Artagnan trong lòng vẫn cảm thấy lo lắng cho Quận công De Buckingham, kéo Planchet ra một chỗ và bảo hắn:

- Nghe đây, khi anh đã trao thư cho Huân tước De Winter và khi ông ấy đã đọc xong, anh bảo thêm ông ấy: "Xin ngài hãy canh chừng cho ngài Huân tước De Buckingham, bởi vì người ta muốn ám sát ngài ấy". Này Planchet, điều này rất nghiêm trọng, rất cần thiết đến mức ta cũng chẳng muốn thú nhận với các bạn ta là ta tin trao cho anh bí mật này và đối với một nhiệm vụ hàng đầu như thế, ta cũng không muốn viết cho anh mang đi.

- Xin ông yên tâm - Planchet nói - Rồi ông sẽ thấy có thể tin cậy vào tôi.

Và cưỡi trên một con tuấn mã, gã phải đi hai mươi dặm rồi bỏ ngựa lại để đổi ngựa trạm, Planchet phi nước đại, lòng hơi thắt lại vì ba lời hẹn ước của ba chàng ngự lâm quân nhưng dẫu sao cũng trong tình trạng tốt đẹp nhất trên đời.

Bazin ra đi sáng hôm sau đến Tours và có tám ngày để hoàn thành nhiệm vụ.

Bốn người bạn, trong suốt thời gian vắng mặt hai gã ấy, hơn bao giờ hết phải để mắt canh chừng, phải mũi đánh hơi, tai nghe ngóng. Ngày ngày phải thử xem liệu có bắt gặp người ta nói gì không, phải rình rập điệu bộ, dáng dấp của Giáo chủ, phải đánh hơi các xe thư vừa tới. Nhiều lần, không tránh khỏi run lên khi họ bị gọi lên vì một công việc đột xuất nào đó. Vả lại họ cũng phải giữ sao cho được an toàn cho chính họ. Milady là một con ma, khi nó đã hiện hình với ai, nó sẽ không để cho người đó ngủ yên.

Sáng ngày thứ tám, mặt mày tươi tỉnh như vẫn thường thấy, Bazin mỉm cười theo thói quen bước vào tửu quán Pácpayô, đúng lúc bốn người bạn đang ăn điểm tâm, và nói theo đúng quy ước:

- Thưa ông Aramis, đây là thư trả lời của cô em họ.

Bốn người bạn đưa mắt nhìn nhau vui sướng, nửa phần công việc đã được làm xong, tất nhiên đây là phần việc tốn ít thời gian và dễ dàng hơn.

Aramis cầm bức thư, nét chữ thô kệch và sai chính tả, không tránh khỏi đỏ mặt.

- Lạy chúa! - Chàng vừa cười vừa reo lên - dứt khoát là tôi thất vọng rồi. Chả bao giờ cái cô Mítsông tội nghiệp viết được như ông De Voatuya.

- Thế nghĩa là thế nào, cái cô Migiông tội nghiệp ấy - Người lính Thụy sĩ đang trò chuyện với bốn người bạn thì thư đến liền hỏi.

- Ồ, Chúa ơi! Có gì đâu - Aramis nói - một cô thợ may bé nhỏ duyên dáng mà tôi rất yêu và tôi yêu cầu cô ấy viết cho mấy dòng để làm kỷ niệm ấy mà.

- Nói thật nhé - Người lính Thụy Sĩ nói - Nếu nàng là một mệnh phụ như cái chữ viết của nàng, thì ông đúng là có phúc lớn đấy ônh bạn của tôi ạ!

Aramis đọc thư rồi chuyển cho Athos và bảo:

- Athos, anh xem cô ấy viết gì này.

Athos liếc nhìn qua bức thư và muốn dập tắt mọi sự nghi ngờ có thể phát sinh, đọc to lên:

"Anh họ của em ạ, chị em và em đoán rất giỏi những giấc mơ, và chúng em cũng có nỗi sợ khủng khiếp về những giấc mơ ấy. Nhưng về giấc mơ của anh, có thể nói, em hy vọng là mọi mộng mị đều là giả dối. Tạm biệt! Mong anh luôn khỏe và thỉnh thoảng cho chúng em biết tin về anh".

Aglaê Mítsông(3)

- Cô ta nói về giấc mơ nào thế? - Người lính long kỵ xán lại gần trong khi đọc, hỏi.

- Phải, giấc mơ gì vậy? - Người lính Thụy Sĩ nói.

- Ồ, mẹ kiếp - Aramis nói - thì đơn giản nó là một giấc mơ tôi mơ rồi kể cho cô ấy nghe chứ còn cái của nợ gì nữa.

- Ồ, phải, mẹ kiếp! Vì đơn giản là kể lại giấc mơ, nhưng tôi không mơ bao giờ cả!

Athos vừa đứng dậy vừa nói:

- Thế thì anh may quá đấy, tôi những mong có thể nói được như anh thôi!

- Không bao giờ! - Người lính Thụy sĩ lắp lại và tỏ ra rất sung sướng vì một người như Athos lại thèm muốn một điều gì đó ở mình - Không bao giờ! Không bao giờ!

Thấy Athos đứng dậy, D'Artagnan cũng đứng lên theo, khoác tay Athos đi ra.

Porthos và Aramis ở lại để đối mặt với những lời giễu cợt của tay lông kỵ binh và người lính Thụy Sĩ.

Còn Bazin, anh chàng ra nằm ngủ khoèo trên một ổ rơm, và anh ta có nhiều óc tưởng tượng hơn anh chàng Thụy Sĩ, nên mơ thấy Aramis trở thành giáo hoàng, và đội lên đầu anh chiếc mũ hồng y Giáo chủ.

Nhưng dù trở về may mắn Bazin cũng không cất được một phần nỗi lo đang châm đốt bốn người bạn. Những ngày chờ đợi dài dằng dặc, và nhất là D'Artagnan những muốn đánh cược ngày bây giờ dài bốn tám giờ. Chàng quên mất những sự chậm trễ buộc phải có của công việc chạy tàu. Chàng phóng đại thế lực của Milady. Chàng gán cho mụ đàn bà đối với chàng giống như một con quỷ đó, có lũ tay chân cũng siêu nhiên như mụ, chàng tưởng tượng ra từ mỗi tiếng động nhỏ nhất người ta tới bắt giữ chàng và người ta dẫn Planchet về để đối chứng với chàng và các bạn chàng. Còn hơn thế nữa, lòng tin của chàng xưa kia lớn lao đến thế, vào cái gã xứ Picađy ấy, ngày một giảm sút. Sự lo âu ấy lớn đến nỗi lan sang cả Porthos và Aramis. Chỉ còn mỗi Athos vẫn bình thản như không, như thể chẳng có mối hiểm nguy nào động đậy xung quanh chàng và chàng vẫn hít thở không khí như mọi ngày thường.

Nhất là ngày thứ mười sáu, những dấu hiệu bồn chồn ở D'Artagnan và hai người bạn kia thể hiện rõ đến nỗi họ đứng ngồi không yên và lang thang như những cái bóng trên con đường mà Planchet sẽ phải trở về.

Athos bảo họ:

- Thật đúng là, các cậu không phải là những người lớn nữa mà là một lũ trẻ con, đến nỗi một con mụ đàn bà này làm cho các cậu sợ hãi ghê gớm đến thế. Và tóm lại, có chuyện gì nào? Bị cầm tù ư? Thì người ta sẽ lôi chúng ta ra khỏi tù. Người ta đã từng kéo bà Bonacieux ra khỏi tù như chơi đó sao. Bị chặt đầu ư? Nhưng ngày ngày trong chiến hào chúng ta vẫn vui vẻ phơi mình ra cho những chuyện còn tệ hơn, bởi một viên đạn trái phá có thể làm gãy chân ta và tôi tin rằng một nhà giải phẫu cắt đùi ta còn làm ta đau hơn tên đao phủ chặt đầu ta. Vậy hãy bình tĩnh chờ đợi. Hai giờ, bốn giờ, sáu giờ, hoặc chậm hơn nữa, Planchet sẽ ở đây. Hắn đã hứa như vậy. Và tôi, tôi có một niềm tin rất lớn vào những lời hứa của Planchet, một người mà tôi thấy là một chàng trai rất can trường.

- Nhưng nếu hắn không tới? - D'Artagnan nói.

- Ồ nếu hắn không tới, đó là có lẽ hắn bị chậm, có thế thôi.

- Hắn có thể bị ngã ngựa, hắn có thể bị lộn nhào qua cầu, có thể chạy quá nhanh nên bị mắc chứng sưng phổi. Thế đấy. Các vị ạ, ta phải tính đến phần của các sự cố chứ. Đời là một chuỗi tràng hạt những nỗi khổ đau nho nhỏ mà nhà triết học vừa cười vừa lần những hạt khổ dau. Hãy là nhà triết học như tôi, các vị ạ, hãy ngồi vào bàn và uống, chẳng có gì làm hiện ra tương lai màu hồng như ta nhìn nó qua một cốc rượu sămbéctanh.

- Đúng lắm, - D'Artagnan trả lời - Nhưng tôi mệt mỏi vì cứ sợ rằng, thứ rượu vang đó lại lấy ra từ hầm rượu của Milady, ngay khi uống.

- Cậu khó tính quá - Athos nói - một người đàn bà đẹp đến như thế?

- Một mụ đàn bà bị đóng dấu! - Porthos cười hô hố.

Athos giật mình đưa tay lên trán lau mồ hôi cũng đứng dậy không kìm nổi một động tác căng thẳng.

Trong khi ấy ngày vẫn cứ trôi và chiều tối đến chậm hơn nhưng cuối cùng vẫn đến. Các quầy rượu đầy ắp khách uống.

Athos rủng rỉnh trong túi phần chia tiền bán kim cương, không rời quán Pácpayô nữa. Chàng đã tìm thấy trong ông De Buyxinhi người chung quy đã khao bọn chàng một bữa tiệc thịnh soạn, một đối thủ cờ bạc ngang tầm với chàng. Họ chơi với nhau như thường lệ tới khi đồng hồ điểm bẩy tiếng và người ta nghe thấy tiếng chân lính tuần tra đến thay phiên các trạm, rồi bảy giờ rưỡi vang lên tiếng kèn thu quân.

- Chúng ta nguy rồi - D'Artagnan rỉ rai Athos.

- Cậu muốn nói chúng ta đã thua chứ gì? - Athos bình tĩnh vừa nói vừa rút trong túi ra bốn đồng pítxtôn vàng ném lên bàn, rồi tiếp tục - Các vị, kèn thu quân rồi, ta về ngủ thôi.

Và Athos, theo sau là D'Artagnan ra khỏi quán Pácpayô, Aramis khoác tay Porthos đi đằng sau. Aramis lải nhải mấy vần thơ, và Porthos thỉnh thoảng lại nhổ vài chiếc ria mép tỏ ý thất vọng.

Nhưng kìa, bất thình lình từ trong bóng đêm, một bóng người hiện ra, mà hình dạng có vẻ thân quen với D'Artagnan và một giọng nói rất quen thuộc nói với chàng:

- Thưa ông, tôi mang đến cho ông áo khoác của ông vì tối nay trời lạnh.

- Planchet! - D'Artagnan reo lên, mừng vui đến phát rồ.

- Planchet! - Porthos và Aramis nhắc lại.

- Ờ, đúng là Planchet - Athos nói - Thế thì có gì lạ? Hắn đã hứa trở về lúc tám giờ, và bây giờ là tám giờ. Hoan hô, Planchet người là một chàng trai biết giữ lời hứa, và nếu bao giờ người thôi làm cho chủ ngươi, ta vẫn dành một chỗ để ngươi giúp ta đấy.

- Ồ, không, không bao giờ - Planchet nói - không bao giờ tôi rời bỏ ông D'Artagnan.

Đồng thời D'Artagnan cảm thấy Planchet nhét một mẩu thư ngắn vào tay mình.

D'Artagnan rất muốn ôm hôn Planchet lúc trở về cũng như chàng đã từng ôm hôn anh ta lúc ra đi. Nhưng chàng lại ngại sự biểu lộ tràn trề đối với người hầu như thế giữa nơi phố xá có vẻ kỳ cục đối với người qua lại đành phải kiềm chế.

- Tôi có thư - chàng nói với Athos và các bạn.

- Tốt lắm - Athos nói - Ta về chỗ mình thôi và ta sẽ đọc bức thư.

Bức thư nóng bỏng trong tay D'Artagnan chàng muốn rảo bước, nhưng Athos kéo tay chàng và khoác vào tay mình, buộc chàng phải đi cùng nhịp với bạn mình.

Cuối cùng họ bước vào lều bạt, thắp đèn lên, trong khi đó Planchet đứng gác trước cửa để đề phòng bốn người bị bắt quả tang, D'Artagnan tay run run, bẻ xi niêm phong mở bức thư mong đợi bấy lâu nay.

Thư chỉ có nửa dòng, nét chữ hoàn toàn của người Anh, ngắn gọn và dứt khoát:

"Thank you, be aesy"

Có nghĩa là "Cám ơn, hãy yên tâm"

Athos giật lấy bức thư trong tay D'Artagnan, đưa lại gần đèn và đốt và chỉ buông ra khi nó đã hoàn toàn biến thành tro. Rồi gọi Planchet, và bảo hắn:

- Bây giờ chú em, chú có thể đòi bẩy trăm livrơ của chú được rồi, một bức thư như thế này rồi thì chú em không phải lo gì nữa đâu. Thế mà tôi đã phải nghĩ ra biết bao nhiêu cách để giữ bằng được nó - Planchet nói.

- Vậy thì kể lại cho bọn ta nghe nào - D'Artagnan nói.

- Trời ơi! Dài lắm, thưa ông.

- Anh nói đúng đấy Planchet ạ - Athos nói - Hơn nữa, trống điểm quân đã báo rồi, chúng ta sẽ bị để ý khi để đèn lâu hơn người khác.

- Thôi được, - D'Artagnan nói - Ta đi ngủ vậy. Ngủ ngon nhé! Planchet!

- Thú thật, đây là giấc ngủ đầu tiên từ mười sáu ngày nay đấy, thưa ông.

- Ta cũng vậy? D'Artagnan nói.

- Ta cũng thế - Porthos nói.

- Cả ta nữa! - Aramis nói Thế thì các cậu có muốn tôi thú nhận sự thực không? Thật tình thì tôi cũng thế! - Athos nói.

Chú thích:(1) Hình phạt thời trung cổ cho bánh xe nghiến nát chân tay như ép mía

(2) Tiếng Hy Lạp có nghĩa là linh ứng. Chương cuối cùng của Tân ước, có tính chất tượng trưng, huyền bí, rất tối nghĩa, nhưng lại đầy chất thơ.

(3) Đây là sự sơ xuất của tác giả vì bức thư không hề sai chính tả

BA CHÀNG LÍNH NGỰ LÂM CHƯƠNG 47 Hội nghị ngự lâm quân

Ba chàng lính ngự lâm
Tác giả: Alexandre Dumas
Dịch giả: Nguyễn Bản
Chương 47 ội nghị ngự lâm quân

Như Athos tiên đoán, pháo thành chỉ có mười hai người chết cả Pháp lẫn Rochelle.

Athos giữ vị trí chỉ huy cuộc hành quân nói:

- Thưa các vị, trong khi Grimaud chuẩn bị bữa ăn, chúng ta hãy bắt đầu bằng việc thu lượm súng đạn, vả lại chúng ta vừa có thể bàn bạc vừa hoàn thành việc đó. Các vị này - Athos chỉ những xác chết nói thêm - không nghe chúng ta nói đâu.

- Nhưng ta có thể ném họ xuống hố - Porthos nói - tuy nhiên sau khi chúng ta được đảm bảo họ không còn gì trong túi.

- Đúng - Athos nói - đó là việc của Grimaud.

- Ồ! Vậy thì cứ để Grimaud lục soát họ và ném họ qua tường thành.

- Giữ họ lại thì hơn - Athos nó - Họ có thể phục vụ chúng ta.

- Những xác chết có thể phục vụ ta ư? - Porthos hỏi - Ái chà, anh điên rồi, bạn thân mến ạ.

- "Chớ có phán xử liều", Kinh Thánh và cả Giáo chủ đều nói thế - Athos trả lời - bao nhiêu súng, các vị?

- Mười hai - Aramis trả lời.

- Bao nhiêu đạn?

- Một trăm.

- Thế là đủ cho chúng ta rồi - Nhồi thuốc đi!

Bốn người tiến hành nhồi thuốc. Khi nhồi xong khẩu súng cuối cùng thì Grimaud ra hiệu bữa điểm tâm cũng vừa xong.

Athos trả lời, vẫn luôn bằng điệu bộ, tốt lắm, và chỉ một góc pháo thành và Grimaud hiểu là mình phải đứng canh ở đó. Có điều để làm vơi nỗi buồn phiền khi canh gác, Athos cho gã mang theo một cái bánh, hai dẻ sườn rán và một chai vang.

- Và vây giờ ta ngồi chén thôi - Athos nói.

Bốn người ngồi xuống đất, chân xếp bằng tròn như người Thổ Nhĩ Kỳ hoặc các bác phó may.

- Nào, bây giờ - D'Artagnan nói - Anh không sợ ai nghe thấy nữa, mong anh cho chúng tôi biết bí mật của anh đi.

- Tôi hy vọng đem lại cho các vị sự hài lòng và cả vinh quang nữa. - Athos nói - Tôi đã đem lại cho các vị một cuộc dạo chơi thú vị, đây là một trong những bữa điểm tâm ngon lành nhất, và năm trăm con người ngoài kia mà các vị có thể nhìn thấy họ qua lỗ châu mai, đang cho chúng ta là những thằng điên hay là những bậc anh hùng, hai hạng ngu ngốc này đều khá giống nhau.

- Nhưng còn cái bí mật ấy? - D'Artagnan nói.

- Bí mật - Athos nói - đó là hôm qua tôi đã gặp Milady.

D'Artagnan đang đưa cốc rượu lên môi, nhưng vừa nghe thấy cái tên Milady, tay chàng đã run bắn lên, khiến chàng phải đặt xuống đất để khỏi sánh rượu ra ngoài.

- Anh đã gặp vợ…

Athos ngắt lời:

- Im nào? Cậu quên rằng các vị đây chưa được am tường như cậu về cái bí mật của nội bộ gia đình mình hay sao - Ừ mình đã gặp Milady.

- Và ở đâu? - D'Artagnan hỏi.

- Cách đây chưa đến hai dặm, ở quán trọ Chuồng chim câu Đỏ

- Nếu thế thì tôi toi mất! - D'Artagnan nói.

- Không, chưa hoàn toàn thế đâu - Athos lại nói - bởi vì giờ này, mụ chắc đã rời bờ biển nước Pháp rồi.

D'Artagnan thở phào.

Porthos hỏi:

- Nhưng rút cục, cái mụ Milady này là thế nào?

- Một người đàn bà duyên dáng - Athos vừa nói vừa nhấp một cốc rượu vang sủi bọt. Tên chủ quán chó má! - Chàng hét lên - Nó tráo rượu sămpanhơ bằng vang Ăngju, và tưởng cánh ta dùng mà không biết gì! Phải - chàng tiếp tục - một phụ nữ duyên dáng, đã đối xử rất tử tế với D'Artagnan của chúng ta thế mà anh chàng chẳng biết đã làm điều gì hắc ám với nàng khiến nàng cố tìm cách trả thù, cách đây một tháng định cho bắn chết anh chàng, và tám ngày gần đây định đầu độc chàng ta, còn hôm qua thì hỏi xin Giáo chủ cái thủ cấp của chàng.

- Thế nào? Hỏi xin Giáo chủ cái thủ cấp của tôi? D'Artagnan hỏi, tái xanh vì sợ hãi.

Porthos nói:

- Việc đó, đúng như kinh Phúc âm rồi. Tôi nghe thấy tận tai điều đó

- Tôi cũng vậy Aramis nói.

- Thế thì - D'Artagnan buông thõng hai cánh tay chán nản nói - đánh nhau thêm làm gì cho phí công, thà tôi cứ tự bắn vỡ óc mình còn hơn và thế là chấm hết tất cả.

Athos nói:

- Thế thì đấy là điều xuẩn ngốc cuối cùng cần phải làm vì đó là cách duy nhất vô phương cứu chữa.

- Nhưng với loại kẻ thù như thế tôi không phải bao giờ cũng thoát khỏi đâu. Trước tiên, kẻ xa lạ ở Măng, tiếp đến là De Wardes, kẻ tôi đã đâm cho ba nhát gươm, rồi Milady mà tôi nắm được bí mật của mụ, cuối cùng là Giáo chủ mà tôi đã làm cho việc trả thù của ông ta thất bại.

- Này cậu! - Athos nói - Tất cả như thế mới là bốn và chúng ta có bốn, một chọi một. Mẹ kiếp! Nếu chúng ta tin vào những gì mà Grimaud đang ra hiệu cho chúng ta, thì chúng ta sắp sửa có chuyện với một số đông kẻ khác đây. Có chuyện gì vậy Grimaud? - Athos nói - Căn cứ vào tình hình nghiêm trọng, ta cho phép anh nói, anh bạn ạ, nhưng xin anh vắn tắt thôi. Anh nhìn thấy gì?

- Một toán.

- Độ bao nhiêu?

- Hai chục người.

- Loại người nào?

- Mười sáu công binh, bốn lính.

- Cách khoảng bao nhiêu bước?

- Năm trăm bước.

- Tốt, chúng ta còn đủ thì giờ để chén nốt con ngỗng này và uống một cốc vang chúc sức khỏe cậu, D'Artagnan!

- Chúc sức khỏe cậu! - Porthos và Aramis cùng nói theo.

- Vậy thì, chúc sức khỏe tôi? Cho dù tôi không tin lời chúc của các anh giúp tôi được gì nhiều.

- Ô hay! - Athos nói - Thượng đế vô biên, như các tín đồ của Mahômét thường nói, và tương lai nằm trong tay Người.

Rồi, uống nốt cốc vang, đặt cốc bên cạnh, Athos uể oải đứng lên, vơ lấy khẩu súng đầu tiên và lại gần một lỗ châu mai.

Porthos, Aramis, và D'Artagnan đều làm theo như thế.

- Còn Grimaud thì nhận lệnh đứng phía sau để nạp lại thuốc súng.

Một lát sau, họ thấy toán người đó xuất hiện, bọn chúng đi theo một đường hào ống ăn thông giữa thành phố vào pháo thành.

- Mẹ kiếp! - Athos nói - Thật không bõ công chúng ta thanh toán hai chục tên vô lại trang bị bằng cuốc bàn, cuốc chim, xẻng.

Grimaud chỉ việc vẫy tay ra hiệu cho chúng đi đi, tôi tin chắc chúng sẽ để ta yên.

- Tôi thì lại ngờ chuyện đó đấy - D'Artagnan nói - bởi chúng tiến rất kiên quyết. Vả lại, cùng với bọn lính thợ còn có bốn lính chiến đấu và một toán trưởng, đều trang bị súng hỏa mai.

- Chính vì chúng không trông thấy bọn ta đấy - Athos nói.

Aramis nói:

- Thú thật, tôi cảm thấy tởm lợm khi phải bắn vào lũ thị dân đáng thương này.

- Một thày tu tồi mới đi thương bọn tà đạo.

- Thật ra, Athos nói - Aramis nói đúng đấy, tôi sẽ báo trước cho họ.

- Anh định làm trò quỷ gì vậy? - D'Artagnan nói - Anh định làm bia À, anh Athos thân mến.

Nhưng Athos không chút để ý đế ý kiến ấy, trèo lên lỗ hổng, một tay cầm súng, tay kia cầm mũ, và nói với bọn lính và bọn lính thợ đang kinh ngạc trước sự xuất hiện của chàng, và dừng lại cách pháo thành khoảng năm mươi bước lại còn chào chúng rất lịch thiệp:

- Các vị, chúng tôi gồm mấy người bạn và tôi, đang ăn điểm tâm trong pháo thành. Mà các vị biết rằng không gì khó chịu bằng bị làm phiền trong khi đang ăn điểm tâm, vì vậy chúng tôi yêu cầu các vị hãy đợi chúng tôi ăn xong, nếu các vị thấy nhất định phải làm việc ở đây thì xin để sau hãy đến, trừ khi các vị có thiện ý rời bỏ bọn phiến loạn và đến uống cùng chúng tôi chúc sức khỏe nhà Vua Pháp.

Coi chừng, Athos! - D'Artagnan kêu lên - Anh không thấy chúng đưa súng lên ngắm ư?

- Thấy quá chứ - Athos nói - Nhưng đấy toàn là thị dân bắn tồi lắm và như tránh bắn vào mình ấy.

Quả nhiên, cùng một lúc bốn phát súng nổ, và những viên đạn đều dính bẹt vào xung quanh Athos và chẳng viên nào trúng vào người chàng.

Bốn phát bắn trả lại hầu như đồng thời nhưng đều ngắm trúng hơn bọn xâm lược, ba tên hnh ngã lăn ra chết thẳng cẳng và một lính thợ bị thương.

- Grimaud, đưa khẩu khác! Athos vẫn đứng ở lỗ hổng nói.

Grimaud vâng lệnh ngay. Về phía ba người kia, họ tự nhồi thuốc lấy - loạt bắn thứ hai tiếp theo loạt thứ nhất, viên toán trưởng và hai lính công binh ngã ra chết, số còn lại bỏ chạy.

- Nào, các vị ra thôi - Athos nói.

- Và cả bốn người bạn lao ra khỏi pháo thành, đến tận chỗ quân Rochelle giao chiến, nhặt lấy bốn khẩu hỏa mai và cây giáo ngắn của tên toán trưởng. Tin chắc bọn chạy trốn phải về đến thành phố mới dừng lại, bốn người cùng trở lại pháo thành, mang theo chiến lợi phẩm.

- Nạp thuốc vào súng đi, Grimaud, Athos nói - và chúng ta các vị ạ, ta lại chén bữa điểm tâm và tiếp tục câu chuyện của chúng ta. Chuyện đến đâu rồi nhỉ?

D'Artagnan nói:

- Tôi nhớ câu chuyện đến chỗ đang bận tâm xem lộ trình mà Milady phải theo như thế nào.

Athos trả lời:

- Mụ đi sang Anh với mục đích gì?

- Mục đích ám sát hay cho người ám sát Buckingham.

D'Artagnan thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc và tức tối:

- Nhưng thế thì thật đê tiện!

- Ồ! Về chuyện đó - Athos nói - tôi xin cậu hãy tin là tôi chẳng quan tâm mấy đâu. Bây giờ Grimaud, người đã nạp xong rồi, hãy cầm lấy cây giáo ngắn của tay toán trưởng, buộc vào đấy chiếc khăn và cắm lên đỉnh pháo thành để cho bọn phản nghịch Rochelle thấy được là chúng đã gặp phải những binh sĩ can trường và trung thành của nhà Vua.

Grimaud vâng lời mà không trả lời. Một lát sau, lá cờ trắng phấp phới bay bên trên đầu bốn người bạn. Tiếng hoan hô vang dậy như sấm, chào mừng sự xuất hiện lá cờ, một nửa doanh trại đổ ra xem.

- Thế nào? - D'Artagnan nhắc lại - Anh không quan tâm mấy việc mụ giết hay cho người giết Buckingham ư?

- Nhưng quận công là bạn của chúng ta.

- Quận công là người Anh, Quận công đánh lại chúng ta, vậy mặc xâc mụ muốn làm gì Quận công thì làm, tôi chỉ quan tâm đến việc ấy như một cái chai hết nhẵn rượu thôi.

Và Athos quăng cái chai chàng đang cầm và vừa rót hết nhẵn sang một cái bình ra xa chàng hai nhăm bước.

- Một giây thôi - D'Artagnan nói - tôi cũng không bỏ rơi ông ta như thế, ông ta đã tặng chúng ta những con tuấn mã.

- Và nhất là những bộ yên cương cực đẹp nữa - Porthos nói, và ngay lúc đó thôi, áo khoác của chàng vẫn còn đeo cái ngự của chiếc yên đó.

- Thêm nữa - Aramis nói - Chúa muốn sự cải hối chứ không phải là cái chết của tội đồ.

- Amen - Athos nói - để sau chúng ta hãy quay lại chuyện đó, nếu đó là sở thích của các vị, còn lúc này, điều làm tôi lo lắng hơn cả và tôi tin cậu sẽ hiểu tôi, D'Artagnan ạ, là đoạt lại ở mụ đàn bà ấy tấm bạch thư mà mụ đã bóp nặn được ở Giáo chủ và nhờ bức thư ấy mụ sẽ thanh toán được cậu và có thể cả bọn tôi nữa.

- Thế thì nó là một con quỷ chứ không phải là người nữa.

D'Artagnan hỏi:

- Tờ bạch thư ấy vẫn trong tay mụ chứ?

- Không, nó đã chuyển sang tay tôi rồi. Tôi không bảo là không vất vả đâu, bởi như thế sẽ là nói dối.

- Anh Athos thân mến - D'Artagnan nói - Tôi không đếm nổi những lần anh cứu sống tôi.

- Vậy ra để đến gặp mụ nên anh bỏ lại chúng tôi? Aramis hỏi.

- Đúng thế.

- Và anh có tấm bạch thư ấy của Giáo chủ? D'Artagnan hỏi.

- Nó đây này - Athos nói.

Và chàng rút mẩu giấy quý giá đó ra khỏi túi áo khoác.

D'Artagnan mở thư, cũng chẳng buồn giấu đôi tay run rẩy, và đọc:

"Theo lệnh của ta và vì lợi ích của quốc gia, người mang tờ gìấy này đã làm điều người đó phải làm".

3 tháng 12 năm 1627

Richelieu

Quả là một sự miễn trừ đối với mọi điều luật - Aramis nói.

D'Artagnan cảm thấy như đọc bản án treo cổ chính mình, chàng nói:

- Phải xé mảnh giấy này đi!

- Hoàn toàn trái lại - Athos nói - Ta phải giữ nó như một báu vật. Phủ đầy vàng, tôi cũng không cho mảnh giấy này đâu.

- Và bây giờ mụ sẽ làm gì được nữa nào? - D'Artagnan hỏi.

- Ồ - Athos hững hờ nói - Có thể mụ ta sẽ viết thư cho Giáo chủ rằng một tên ngự lâm trời chu đất diệt tên là Athos đã dùng vũ lực tước đoạt tờ thông hành vạn năng của mụ, trong thư, mụ cũng sẽ khuyên nên trừ khử đồng thời cả tên Athos lẫn hai bạn nó là Porthos và Aramis. Giáo chủ sẽ nhớ ra ông luôn chạm trán với những con người đó trên đường đi của mình, rồi một buổi sáng ngày kia, ông sẽ cho bắt giữ D'Artagnan, và để cho hắn khỏi phải buồn phiền một mình, ông ta sẽ phái cả lũ chúng ta đến bầu bạn với hắn trong ngục Bastille.

Porthos nói:

- Ôi, anh đùa mà nghe cứ não cả ruột, Athos ạ!

- Tôi không đùa đâu.

- Anh có biết không - Porthos nói - thà cắn cổ cái con Milady trời đánh đó còn nhẹ tội hơn cắn cổ cái bọn Tin lành khốn khổ chả bao giờ mắc tội gì khác là đi hát Thánh ca bằng tiếng Pháp chứ không bằng tiếng Latinh như chúng ta.

- Ngài nói sao, tu viện trưởng? - Athos bình thản hỏi Aramis.

- Tôi nói tôi tán thành ý kiến Porthos - Aramis trả lời.

- Tôi cũng thế - D'Artagnan nói.

- Cũng may mà mụ ấy ở xa - Porthos nói - bởi tôi thú thật, nếu mụ ở đây thì ngứa ngáy chân tay tôi lắm.

- Mụ làm phiền tôi ở Anh cũng như ở Pháp - Athos nói.

- Mụ làm phiền tôi ở khắp nơi - D'Artagnan nói.

- Nhưng khi cậu tóm được mụ, - Porthos hỏi - cậu không dìm chết, bóp cổ, treo cổ mụ lên chứ? Chỉ có chết rồi, mụ mới không trở lại được.

- Cậu tin vậy ư? Porthos? - Athos hỏi với một nụ cười u tối mà chỉ D'Artagnan mới hiểu.

- Tôi có một ý kiến - D'Artagnan nói.

- Nói xem nào? - Cả mấy người cùng bảo chàng.

Grimaud bỗng hét lên:

- Cầm súng!

Lần này một toán nhỏ khoảng hai mươi đến hai nhăm người, nhưng không còn là lính thợ nữa đó là bọn lính đồn trú.

Porthos nói:

- Ta quay về doanh trại chăng? Tôi thấy có vẻ không cân sức.

- Không được - Athos trả lời - vì ba lý do. Thứ nhất, chúng ta chưa xong bữa điểm tâm. Thứ hai, chúng ta vẫn còn những điều quan trọng phải bàn. Thứ ba, còn thiếu mười phút nữa mới hết hạn cược.

- Vậy thì, Aramis nói - phải vạch ra một kế hoạch tác chiến chứ.

- Rất đơn giản - Athos nói - ngay khi quân địch ở đúng tầm, là ta bắn. Nếu chúng tiếp tục tiến, ta bắn nữa cho kỳ hết súng đã nạp sẵn, nếu bọn còn lại muốn leo lên xung phong, chúng ta để cho bọn vây ta xuống đến tận hào, lúc đó ta mới đẩy những vạt tường đã lung lay chỉ còn trụ lại nhờ ở thế cân bằng kỳ quái lên đầu chúng.

- Hoan hô! - Porthos nói - Athos ạ, nhất định anh sinh ra là để làm tướng rồi, và Giáo chủ cứ tưởng mình là nhà quân sự đại tài cũng chưa nước mẹ gì so với anh.

- Thưa các vị - Athos nói - Đừng lải nhải vô tích sự nữa, tôi xin đấy, mỗi người hãy nhằm một tên đi.

- Tôi nhằm tên của tôi rồi - D'Artagnan nói.

- Tôi cũng có rồi - Porthos nói.

- Tôi cũng thế - Aramis nói.

- Vậy bắn! - Athos nói.

Bốn phát súng cùng nổ thành một tiếng và bốn tên ngã.

Lập tức tiếng trống đánh thúc giục tốp lính xông lên theo nhịp trống.

- Thế là tiếng súng nối tiếp nhau nổ, lúc mau lúc thưa, nhưng luôn luôn chính xác. Tuy nhiên vì biết được sự yếu thế về quân số của bọn họ, quân Rochelle tiếp tục tiến bước.

Cứ ba phát bắn ra thì hai tên ngã, nhưng việc tiến quân của những tên còn vững vẫn không chịu chậm lại. Đến chân pháo thành, quân thù còn mười hai hay mười lăm tên gì đó, một loạt đạn cuối cùng bắn ra đón chúng nhưng chúng không hề dừng lại, chúng nhảy xuống hào và chuẩn bị leo lên lỗ hổng.

- Bây giờ, các bạn - Athos nói - Một đòn nữa cho xong đi, ra chỗ tường, ra chỗ tường đi!

Và bốn người, có Grimaud giúp, lấy nòng súng bẩy tường, một mảng tường khổng lồ ngả xuống như bị gió đẩy, long khỏi chân, rơi đánh rầm xuống hào thành một tiếng khủng khiếp, rồi người ta nghe thấy tiếng kêu thét lớn, một đám mây bụi bốc lên cao - và thế là hết.

- Liệu chúng có cho bẹp dí từ đứa đầu đến đứa cuối không? - Athos hỏi.

- Tôi thấy hình như thế - D'Artagnan nói.

- Không - Porthos nói - có hai ba đứa đang bò lê chạy trốn kia kìa.

Quả nhiên ba bốn tên khốn khổ, người đầy bùn và máu chạy trốn trên con đường trống vắng về thành phố, đó là tất cả những gì còn lại của toán nhỏ ấy.

Athos nhìn đồng hồ rồi nói:

- Thưa các vị, chúng ta ở đây đã được một giờ rồi, và đã thắng cược. Nhưng chúng ta phải là những tay chơi đẹp. Hơn nữa D'Artagnan còn chưa nói ý kiến của mình.

- Và chàng ngự lâm, với vẻ bình tĩnh vốn có, ra ngồi trước những món ăn còn lại của bữa điểm tâm.

- Ý kiến của tôi ư? - D'Artagnan nói.

- Phải, cậu đã nói cậu có một ý kiến kia mà - Athos nói.

- À, phải rồi! - D'Artagnan nói tiếp - tôi sẽ qua bên Anh lần thứ hai, tôi sẽ tìm Buckingham.

- Cậu sẽ không làm điều đó được, D'Artagnan - Athos lạnh lùng nói.

- Tại sao vậy? Tôi đã từng sang đó mà?

- Phải, lần đó, chúng ta không đang có chiến tranh, ông De Buckingham là một đồng minh chứ không phải là một kẻ thù. Điều cậu định làm sẽ bị quy là phản bội.

D'Artagnan hiểu sức mạnh của lý lẽ đó nên im mất.

- Nhưng - Porthos nói - hình như tôi cũng có ý kiến đây!

- Im để nghe ý kiến của Porthos nào! -Aramis nói.

- Tôi xin ông De Treville nghỉ phép, viện một cái cớ nào đó mấy người sẽ tìm hộ, vì tôi không giỏi về chuyện viện cớ. Milady không biết tôi, tôi đến gần mụ, mụ cũng không nghi ngại gì, và khi tôi tìm được người đẹp, tôi sẽ bóp chết mụ.

- Ờ được đấy! Athos nói - có thể chấp thuận ý kiến ấy được.

- Thôi đi! - Aramis nói - Giết một người đàn bà ư! Không, nghe đây, tôi có một ý kiến thiết thực.

Athos vốn rất tôn trọng chàng ngự lâm trẻ này nên nói:

- Để xem ý kiến của Aramis nào!

- Phải báo trước cho Hoàng hậu.

- Hay! Phải rồi - cả Porthos lẫn D'Artagnan đều reo lên -

- Thế là cũng đã có cách rồi.

- Báo trước cho Hoàng hậu ư? - Athos nói - Và báo thế nào?

- Chúng ta có ai thân thích trong triều không? Ta có thể cử ai đến Paris mà ở doanh trại người ta không biết không? Đây đến Paris là bốn trăm dặm. Thư của chúng ta chưa tới Ănggiê thì chúng ta đã bị tống vào hầm tối rồi.

- Về việc làm thế nào để chuyển thư an toàn cho Hoàng hậu - Aramis đỏ mặt nói - tôi xin đảm nhiệm, tôi quen một người ở Tours rất khôn khéo.

Aramis thấy Athos mỉm cười liền dừng lại.

- Thế nào, anh Athos, anh không chấp nhận cách đó ư? - D'Artagnan nói.

- Tôi không hoàn toàn bác bỏ - Athos nói - nhưng chỉ muốn lưu ý Aramis là không thể rời khỏi doanh trại được, mà mọi người khác ngoài chúng ta đều không an toàn, chỉ cần hai giờ sau khi phái viên ra đi là bọn tu sĩ dòng Frăngxít, bọn mật vụ, bọn mũ nồi đen của Giáo chủ đã thuộc lòng bức thư, và người ta sẽ bắt giữ cậu cùng với con người khôn khéo của cậu nữa.

- Chưa kể - Porthos nói - Hoàng hậu sẽ cứu De Buckingham nhưng không cứu chúng ta đâu.

- Thưa các vị - D'Artagnan nói - điều Porthos nói đầy ý nghĩa đấy.

- Ơ kìa? Có chuyện gì xảy ra trong thành ấy nhỉ! - Athos hỏi.

- Chúng đánh trống ra quân.

Bốn người lắng tai nghe, và tiếng trống vang đến tận chỗ họ.

- Các cậu sẽ thấy chúng sắp phái cả một binh đội đến đánh chúng ta đấy - Athos nói.

- Anh không định chống chọi với cả một binh đội đấy chứ?

Porthos hỏi.

- Tại sao không? - Chàng ngự lâm quân đáp - Tôi cảm thấy mình đang hăng máu đây. Và tôi sẽ trụ vững trước cả một đạo quân, chỉ cần chúng ta phòng bị trước bằng cách có thêm mười hai chai rượu nữa.

D'Artagnan nói:

- Tôi thề là tiếng trống đang đến gần đấy. Cứ để cho nó đến gần - Athos nói - Đường đi từ đây đến thành phố chỉ mất mười lăm phút và do đó từ thành phố đến đây cũng vậy. Còn khối thì giờ để ta vạch ra kế hoạch của ta. Nếu đi khỏi đây, chẳng bao giờ chúng ta còn tìm lại được một chỗ thuận lợi như thế. Và xem này, đúng là mình vừa có một ý rất hay, các vị ạ.

- Nói xem nào.

Cho phép mình ra lệnh cho Grimaud một vài điều cần thiết.

Athos ra hiệu cho người hầu của mình lại gần.

- Grimaud - Athos chỉ những người chết nằm yên trong pháo thành - Anh đem những vị này dựng lên tựa vào tường thành, đội mũ lên đầu họ, và đặt súng vào tay họ(1).

- Ôì, vĩ nhân! - D'Artagnan nói - Tôi hiểu anh rồi - Cậu hiểu ư? - Porthos hỏi - Còn anh, Grimaud, anh có hiểu không? Aramis nói.

Grimaud ra hiệu có hiểu.

- Chỉ cần có thế thôi - Aramis nói - ta trở lại ý kiến của tôi đã.

- Tôi muốn hiểu cặn kẽ cơ - Porthos nói.

- Không cần thiết.

- Có chứ, có chứ, phải hiểu cặn kẽ ý kiến của anh Athos chứ? cả D'Artagnan và Aramis cùng nói.

- Cái mụ Milady ấy, mụ đàn bà ấy, con súc sinh ấy, con quỷ ấy có một gã em chồng, theo như cậu nói với tôi có phải không, D'Artagnan?

- Phải, tôi còn biết ông ta rất rõ nữa, và tôi cũng tin ông ta không có cảm tình mấy với chị dâu mình.

- Điều đó không phải là dở, nhưng nếu ông ta ghét mụ thì tốt hơn.

- Trong trường hợp đó, chúng ta càng được việc.

- Thế nhưng - Porthos nói - tôi vẫn muốn biết Grimaud làm cái gì?

- Tên gã em chồng là gì?

- Huân tước De Winter.

- Bây giờ hắn ở đâu?

- Trở về London ngay khi có tin chiến tranh rồi.

- Thế thì, đó chính là người mà chúng ta cần, Athos nói - đó chính là người thích hợp với cậu để báo trước. Chúng ta sẽ cho ông ta biết là chị dâu ông ta đang định ám sát ai đó, và chúng ta sẽ yêu cầu ông ta đừng rời mắt khỏi mụ ta. Tôi hy vọng ở London chắc cũng có một cơ sở nào đó chứa những mụ đàn bà con gái sa ngã để hoàn lương, để ông ta tống chị dâu mình vào đó, thế là ta yên tâm.

- Yên tâm - D'Artagnan nói - cho đến khi mụ ta ra khỏi đây.

- Chà, thật tình - Athos nói - cậu đòi hỏi nhiều quá đấy, D'Artagnan à, tôi đã hiến cho cậu tất cả những gì tôi có, và xin báo trước thế là cạn túi rồi.

- Tôi thì tôi lại thấy thế này tốt hơn - Aramis nói, chúng ta báo trước cho cả Hoàng hậu lẫn Huân tước De Winter.

- Đúng, nhưng chúng ta sẽ nhờ ai mang thư đến thành Tours và đến London?

- Tôi đảm bảo Bazin đi được - Aramis nói.

- Và tôi, là Planchet - D'Artagnan nói.

Porthos nói:

- Quả là nếu chúng ta không thể rời doanh trại, thì những người hầu của chúng ta có thể rời đi lắm chứ.

- Hẳn rồi - Aramis nói - và ngay hôm nay, ta viết thư, ta sẽ cho họ tiền và họ ra đi.

- Chúng ta cho họ tiền? - Athos hỏi lại - vậy các cậu có tiền không?

Bốn người nhìn nhau, và một áng mây lướt trên trán họ vừa mới rạng ra được một lúc.

- Báo động! - D'Artagnan hét lên - tôi thấy những chấm đen và những chấm đỏ đang động đậy dưới kia, vậy mà anh nói là một binh đội được ư, Athos, cả một đạo quân đấy!

- Phải, chúng đấy! - Athos đáp - Cậu thấy lũ thâm hiểm này đang đến không kèn, không trống chứ? A, làm xong rồi hả Grimaud?

Grimaud ra hiệu xong rồi, và chỉ mười hai xác chết hắn đã đặt trên những độ cao rất ngoạn mục số này thì cầm súng, số kia thì nhắm bắn, số khác tay cầm gươm.

- Hoan hô? - Athos nói - trí tưởng tượng của người như thế là đáng tôn vinh đó.

- Thì cũng đến thế thôi - Porthos nói - Tôi muốn hiểu cặn kẽ cơ.

- Hãy chuồn đã - D'Artagnan nói - anh sẽ hiểu sau.

- Khoan tí đã các vị! Khoan một tí cho Grimaud có thì giờ dọn dẹp đi đã.

- Này này! - Aramis nói - Những chấm đen và chấm đỏ mỗi lúc một to thêm và trông rõ quá rồi, tôi đồng ý với D'Artagnan, tôi tin chúng ta không còn dềnh dàng việc rút về doanh trại được nữa đâu.

- Thì tôi có gì để chống lại việc rút lui nữa đâu. Chúng ta đánh cược một giờ, ta đã ở đây một giờ rưỡi, có gì đáng nói nữa, đi thôi, các vị, đi thôi.

Grimaud bê thúng thức ăn thừa đi trước.

Bốn người đi sau gã cách khoảng mươi bước.

- Ê này các vị - Athos nói - Chúng ta làm cái quỷ gì thế?

- Anh quên cái gì ư? - Aramis hỏi.

- Mẹ kiếp, còn lá cờ? Không thể để cờ lọt vào tay quân thù được, ngay cả khi nó chỉ là một cái khăn ăn.

Và Athos lao trở lại pháo thành, leo lên bậc thềm, nhổ lấy lá cờ lên, có điều quân Rochelle đã đến đúng tầm bắn, chúng bắn chát chúa vào phía chàng đang phơi mình ra như một thú vui.

Athos vừa vẫy cờ vừa quay lưng lại bọn Rochelle và chào những người của doanh trại. Từ hai mặt tiếng reo hò vang dội, một mặt là những tiếng la hét giận dữ, mặt kia lại là những tiếng reo cuồng nhiệt.

Một loạt đạn thứ hai tiếp theo loạt thứ nhất và ba viên khoan thủng biến chiếc khăn ăn thành một lá cờ thực sự. Tiếng la vang lên từ khắp doanh trại.

- Xuống đi, xuống đi!

Athos đi xuống. Các bạn đang rất đỗi lo âu đợi chàng, rất vui mừng thấy chàng trở lại.

- Nào, nào - D'Artagnan nói - Bước dài chân ra, mau lên, giờ thì chúng ta đã giải quyết được tất cả rồi, trừ mỗi tiền thôi, để bị giết thì ngu ngốc quá.

Nhưng Athos vẫn bước một cách đường hoàng, mặc kệ những lời chỉ trích của các đồng đội, rồi thấy chỉ trích cũng vô ích, họ đành phải bước theo kiểu đường hoàng theo chàng.

Grimaud bê thúng đi trước đã ra khỏi tầm bắn.

Một lát sau lại vang lên tiếng súng bắn tới.

- Thế là thế nào? - Porthos hỏi - Chúng bắn vào cái gì vậy?

- Tôi không nghe thấy tiếng đạn réo và chẳng nhìn thấy ai cả.

- Chúng bắn vào những xác chết đấy - Athos trả lời.

- Nhưng những xác chết của chúng ta sẽ không đáp lại.

- Đúng thế, thế là chúng liền tưởng là một ổ phục kích, chúng sẽ bàn bạc, rồi sẽ cử một tên đến thương nghị, và khi chúng nhận ra đó là một trò đùa, chúng ta đã ở ngoài tầm bắn.

- Bởi thế làm gì phải vội vã cho nó hết hơi.

- Ồ, tôi hiểu rồi? - Porthos kinh ngạc nói.

- Thế thì sung sướng quá! - Athos nhún vai nói.

Về phía mình, những người Pháp thấy bốn người bạn lững thửng trở về, reo lên cuồng nhiệt.

Cuối cùng một loạt đạn súng trường lại vang lên, và lần này đạn tới bệt dí trên sỏi đá xung quanh bốn người bạn, và réo lên thê thảm bên tai họ. Bọn Rochelle cuối cùng cũng đã chiếm được pháo thành.

- Đúng là một lũ vụng về - Athos nói - Chúng ta giết được bao nhiêu đứa? Mười hai phải không?

- Hoặc mười lăm gì đó.

- Bao nhiêu đứa bị chết bẹp?

- Từ tám đến mười đứa.

- Mất tất cả ngần ấy mà không đổi lại được một vết xước ư?

- Chà! Khá thật? Cậu làm sao ở tay vậy, D'Artagnan? Máu ư?

- Không sao cả - D'Artagnan nói.

- Một viên đạn lạc?

- Không phải đâu.

- Vậy là cái gì?

Như đã nói, Athos yêu D'Artagnan như con mình, và cái tính u trầm và cứng rắn đôi khi đối với chàng trai trẻ lại như những chăm sóc của người cha.

- Vết xước da thôi - D'Artagnan đáp - những ngón tay tôi lại bị kẹp giữa hai hòn đá, một hòn ở bức tường và một viên trên chiếc nhẫn, thế là da bị rách ra.

- Thế mới biết thế nào là có kim cương, ông chủ ạ - Athos nói mỉa.

- Và phải rồi - Porthos reo lên - Quả là có một viên kim cương cơ mà, vậy thì tại cái quỷ gì mà một khi đã có một viên kim cương lại cứ phàn nàn là không có tiền?

- Ừ, phải rồi! - Aramis nói.

- Thế là may quá rồi, Porthos, lần này mới thật là một ý kiến.

- Hẳn rồi - Porthos gân cổ lên nói trước sự khen ngợi của Athos - một khi có kim cương, ta bán béng nó đi.

- Nhưng - D'Artagnan nói - Đó là kim cương của Hoàng hậu.

- Càng đáng bán - Athos nói tiếp - Hoàng hậu cứu Buckingham người tình của mình, không gì đúng hơn thế.

- Hoàng hậu cứu chúng ta, những người bạn của bà, không gì đạo lý hơn, bán cái nhẫn kim cương đi. Ngài nghĩ sao, cha tu viện trưởng? Tôi không hỏi ý kiến Porthos nữa, cậu ấy đã nói rồi.

- Còn tôi thì nghĩ - Aramis đỏ mặt lên nói - vì chiếc nhẫn không phải do người tình tặng và do đó không phải là tín vật của tình yêu nên D'Artagnan có thể bán nó.

- Bạn thân mến, anh nói như một nhà thần học bằng xương, bằng thịt vậy. Như thế ý kiến của anh là…

- Là bán cái nhẫn kim cương - Aramis trả lời.

- Thế thì! - D'Artagnan vui vẻ nói - Ta bán chiếc nhẫn kim cương đi và đừng bàn bạc gì nữa.

Loạt súng mới tiếp tục nổ, nhưng mấy người đã ra khỏi tầm bắn và quân Rochelle chỉ còn bắn để khỏi trái với lương tâm của họ.

- Quả thật tôi thấy ý kiến của Porthos đưa ra thật đúng lúc.

- Giờ đây ta đã ở doanh trại. Như vậy, thưa các vị, không nói ra nói vào một câu nào nữa về mọi chuyện này. Người ta đang quan sát chúng ta, sẽ đến gặp gỡ chúng ta, chúng ta sẽ được công kênh vì chiến thắng.

Quả nhiên, toàn doanh trại đùng đùng chuyển động, hơn hai nghìn người đã tham dự một trò bịp bợm như một màn kịch, một trò bịp bợm may mắn của bốn người bạn mà còn lâu người ta mới nghi ngờ động cơ thực sự của nó. Người ta chỉ còn nghe thấy những tiếng hò "Cận vệ muôn năm! Ngự lâm muôn năm".

Ông De Buyxinhi là người đầu tiên đến siết tay Athos, nhận đã thua cược. Chàng long kỵ binh và chàng lính Thụy sĩ đi theo ông ta, tất cả các bạn hữu đều đi theo chàng Long kị binh và chàng Thụy Sĩ. Khen ngợi bắt tay, ôm hôn không dứt, những chuỗi cười đối với bọn Rochelle không tắt, cuối cùng là một sự náo động lớn đến nỗi Giáo chủ tưởng có nổi loạn phải sai La Huđinie, viên đại úy cận vệ đến xem có chuyện gì.

Mọi việc được kể lại cho vị phái viên với tất cả sự tưng bừng cuồng nhiệt.

- Thế nào? - Giáo chủ hỏi khi thấy La Hyđinie.

- Ồ, thưa Đức ông - người này nói - đó là ba chàng ngự lâm quân và một cận vệ đánh cược với ông De Buyxinhi đến ăn điểm tâm trong pháo thành Saint Giécve, và vừa ăn vừa chống chọi trong hai giờ đồng hồ với quân thù và tôi không biết đã giết được bao nhiêu quân Rochelle.

- Ông có hỏi tên ba người đó không?

- Có, thưa Đức ông.

- Tên là gì?

- Đó là các ông Athos, Porthos, và Aramis.

- Vẫn là mấy tay can trường của ta - Giáo chủ lẩm bẩm - Và tay cận vệ?

- Ông D'Artagnan.

- Vẫn luôn là gã quỷ non của ta! Dứt khoát bốn con người ấy phải thuộc về ta.

Ngay tối ấy, Giáo chủ nói với ông De Treville về chiến công buổi sáng khiến cả doanh trại phải bàn tán. Ông De Treville đã nắm được câu chuyện phiêu lưu ấy từ chính miệng của những nhân vật từng là anh hùng đó, liền kể lại hết đến từng chi tiết, không quên đoạn chiếc khăn cho Giáo chủ nghe.

- Tốt lắm, ông De Treville ạ - Giáo chủ nói - Làm ơn cho tôi được giữ chiếc khăn. Tôi sẽ cho thêu ba bông huệ bằng vàng lên đó, và tôi sẽ trao lại cho đại đội ngài để làm quân kỳ.

- Thưa Đức ông - Ông De Treville nói - Như thế sẽ bất công đối với quân cận vệ. Ông D'Artagnan không thuộc quân tôi mà thuộc ông des Essarts.

- Thế thì, ông hãy lấy anh ta sang đại đội ông đi - Giáo chủ nói - Một khi bốn chiến binh can trường yêu quý nhau đến thế mà lại không phục vụ trong cùng một đại đội há chẳng bất công sao.

Ngay tối đó, ông De Treville báo cáo tin ấy cho ba chàng ngự lâm và D'Artagnan và mời cả bốn người hôm sau tới ăn điểm tâm.

D'Artagnan không đủ sức để gánh nổi vui mừng nữa. Uớc mơ suốt đời chàng là trở thành một ngự lâm quân.

- Thật tình! - D'Artagnan nói với Athos - Ý của anh đã làm nên chiến thắng đó, và như anh đã nói đấy, chúng ta đã có thể gắn nó với một cuộc bàn bạc quan trọng bậc nhất.

- Ta lại còn có thể trở lại câu chuyện đó lúc này mà không bị ai nghi ngờ, bởi nhờ Chúa phù hộ, từ nay chúng ta chuyển sang phe Giáo chủ rồi.

Ngay tối đó, D'Artagnan tới để tỏ lòng tôn kính ông des Essarts và báo tin cho ông mình đã được đề bạt.

Ông des Essarts rất yêu D'Artagnan liền ngỏ ý tặng chàng một số thứ, vì sự thay đổi đơn vị sẽ dẫn đến những khoản chi tiêu sắm sửa quân trang.

D'Artagnan từ chối, nhưng không bỏ lỡ dịp tốt, chàng nhờ ông đánh giá giúp chiếc nhẫn kim cương trao cho ông mà chàng muốn đổi thành tiền.

Tám giờ sáng hôm sau, tên hầu của ông des Essarts đến chỗ D'Artagnan và trao cho chàng một túi vàng bẩy nghìn livres.

Đó là giá chiếc nhẫn kim cương của Hoàng hậu.

Chú thích:(1) Tác giả áp đặt quá đáng tình tiết này: Người đã chết không thể giữ súng trong tay, và bao nhiêu việc như thế làm sao có thể thực hiện trong mười lăm phút.