468x1000 Ads

Truyện

Trong thành có ma chơi

  Ngày xưa có một người trước kia biết rất nhiều truyện cổ tích, nhưng về sau ông ta bảo với mọi người rằng ông đã quên hết cả rồi, vì Truyện, xưa kia hay đến thăm ông, nay chẳng thấy đến gõ cửa nhà ông nữa.
Chẳng ai biết tại sao thế nhỉ?

Trước hết, vì đã lâu ngày ông bạn của chúng ta chẳng còn nghĩ đến truyện nữa, nhưng về phía Truyện, Truyện chẳng quay trở lại cái xứ sở bị chiến tranh tàn phá rồi lâm vào cảnh nghèo nàn, tang tóc, bạn đồng hành mà nạn binh lửa thường kéo theo sau.

Cò vạc và chim én từ những xứ ấm bay trở về. Chúng chẳng ngờ là tai hoạ đã xảy đến, nhưng khi về đến nơi, chúng thấy tổ ấm đã bị phá huỷ, nhà cửa đã cháy trụi, đồng cỏ tan hoang, ngựa quân thù đã giày xéo lên những ngôi mộ cổ. Tuy nhiên, thời kỳ gian khổ và ảm đạm cũng đã qua, qua hẳn rồi mà Truyện cũng chẳng quay về gõ cửa nhà con người hay kể chuyện.

Hay là Truyện cũng đã tử vong rồi?
Ông bạn của chúng ta nghĩ vậy.
Nhưng Truyện chẳng bao giờ chết.
Đã trọn một năm ông vẫn mong chờ gặp lại Truyện.
-Ước gì Truyện lại đến gõ cửa nhà ta nhỉ?

Rồi ông nhớ lại tất cả những người mà Truyện đã từng đội lốt để đến tìm ông, lúc thì tươi trẻ như mùa xuân, lúc thì dưới hình dạng một thiếu nữ đội chiếc mũ miện bằng lá, cầm cành dẻ gai trên tay. Mắt nàng như nước hồ sâu thẳm trong rừng lấp lánh dưới ánh thái dương. Khi gánh hàng ra và rao bán những dải lụa dài có ghi những bài thơ và truyện cổ tích.

Tuy nhiên, trông đẹp hơn cả là lúc Truyện biến thành một bà lão có bộ tóc màu gio bạc, có đôi mắt to trầm lặng. Bà cụ say sưa kể lại truyện thời xưa, thời mà các nàng công chúa còn kéo sợi trên những cái guồng bằng vàng, bên cạnh những bầy rắn nằm cuộn tròn để chiêm ngưỡng các nàng. Bà cụ kể chuyện nghe đến là mê! Và thỉnh thoảng bà cụ lại kể những truyện hãi hùng đến nỗi người nghe tưởng như mặt đất tràn đầy những máu người. Phải, các truyện ấy, tuy ghê rợn, nhưng sao mà thú vị đến thế. Dù sao, những truyện ấy cũng đã xảy ra từ ngày xửa ngày xưa.

-Bà cụ chẳng quay trở lại gõ cửa nhà ta nữa hay sao? Ông bạn chúng ta nghĩ vậy.
Ông nhìn xuống những mảnh gỗ vụn màu đen rải rác trên sàn nhà. Ông tự hỏi chẳng biết đấy có phải là những vết máu hay là những cánh hoa tang của những ngày đau khổ.

Trong lúc ngồi trầm ngâm ông nghĩ có lẽ Truyện núp trong cọng rơm đang bị gió xoáy tròn trong góc kia chăng? Hay là Truyện núp vào một đóa hoa ép khô trong những pho sách lớn ở tủ sách của mình chăng?
Để được yên lòng, ông ta mở một cuốn sách mới nhất, nhưng trong cuốn ấy không có hoa. Sách nói về truyện Ôgiê xứ Đan Mạch và thuật lại rằng những truyện phiêu lưu của Ôgiê chỉ là do một thày tu người Pháp bịa ra và là một cuốn tiểu thuyết Pháp dịch ra tiếng Đan Mạch. Cái anh chàng Ôgiê xứ Đan Mạch ấy làm gì có thật, do đó, không bao giờ có thể hiện về như nhân dân Đan Mạch vẫn thường tưởng tượng, thậm chí cò người lại tưởng tượng mình là con người ấy. Truyện Ôgiê xứ Đan Mạch cũng giống như truyện Guyôm Ten thôi, chẳng qua chỉ là truyền thuyết cả. Sách dẫn giải điều đó một cách rất khoa học.

-Mặc! Cho dù thế nào cũng được, ông bạn chúng ta tự nhủ, chẳng có thể có đường mòn nếu không có người qua lại.

Ông gấp sách, để vào một chỗ cũ trên ngăn tủ và tới ngửi những đoá hoa tươi trên khung cửa sổ.
Có thể là truyện núp trong những đoá hoa huệ đỏ viền vàng hoặc trong đoá hồng xinh xắn, hoặc có khi trong đoá trà mi diễm lệ. Không phải! Ánh mặt trời lấp lánh giữa hoa, nhưng Truyện nào đâu thấy!

Ông bạn tiếp tục suy nghĩ. Trong những ngày đen tối, nơi đây đã có những đoá hoa còn đẹp hơn thế nữa, nhưng người ta đã ngắt hoa đi, tết thành vòng và đặt lên một chiếc linh cữu cũng có phủ một lá cờ. Có lẽ người ta đã chôn Truyện theo những đóa hoa ấy chăng? Nhưng nếu vậy, ắt là hoa, linh cữu và đất đều phải biết rõ, những ngọn cỏ mới mọc lên ắt cũng đã kể lại truyện ấy rồi. Có thể, trong những ngày đau khổ, Truyện đã đến gõ cửa nhà ta chăng? Nhưng lúc ấy thì ai còn tâm địa nào mà nghe kể truyện nữa. Mọi tấm lòng còn đang u uất, rã rời và hầu như khó chịu khi nghe thấy tiếng chim muống ríu rít hót và thấy cảnh vật còn trơ lại xanh tươi cùng với mùa xuân. Lúc ấy, chúng ta chẳng thể hát lên được những bài dân ca cổ điển, phải giấu giếm chúng cùng với những tâm tư thầm kín nhất. Phải, có lẽ lúc ấy Truyện đã đến gõ cửa nhà ta, nhưng ta đã không nghe thấy, không niềm nở đón chào nên Truyện đã bỏ đi mất. Ta muốn đi tìm Truyện, ta phải tìm thấy Truyện, dù Truyện ở nơi thôn dã, trong rừng rậm hoặc ngay cả trên những bãi cát bên bờ đại dương.

Tít trên kia, sừng sững một lâu đài cổ, tường vách màu đỏm khía lỗ châu mai, trên đỉnh tháp phấp phới một lá cờ. Gần đấy, một chú hoạ mi cất tiếng hót trong vòm lá cây dẻ trắng, chú nhìn vào hoa mận nở trong vườn, cứ tưởng là hoa hồng. Chính nơi đây, dưới ánh nắng hè, đàn ong làm việc không ngừng và hát vo ve, xúm xít chung quanh ong chúa. Chính nơi đây, vào dịp lễ Nôen, có tiếng kêu của đàn thiên nga và, bên trong toà lâu đài cổ kính, quanh bếp lò, người ta vui vẻ ngồi nghe ca hát và nghe kể chuyện cổ tích. Người tìm Truyện đang rảo bước trên con đường rợp bóng cây dẻ gai, trong khoảng vườn cũ. Chính tại nơi ấy, một hôm gió đã kể chuyện Vađơma và các nàng con gái và thân mẫu của Truyện, biến hình thành một nữ mộc tinh, đã kể cho ông ta nghe truyện Giấc mơ cuối cùng của cây sồi.

Thời còn mồ mả bà nội ông, nơi ấy có nhiều lùm cây, nhưng giờ đây chỉ còn rặt một giống đuôi chồn và tầm ma leo lên trên những pho tượng cổ đổ vỡ. Mắt tượng phủ đầy rêu, nhưng cũng chẳng vì thế mà tượng nhìn kém tinh hơn trước. Người đi tìm truyện chẳng sung sướng bằng những pho tượng ấy, ông ta tìm mà chẳng thấy Truyện đâu cả. Vậy Truyện ở đâu?

Trên đầu ông, quạ khoang bay từng đàn và kêu: “Còn ở xa! Còn ở xa!”
Ông bước ra khỏi vườn, vượt qua cái hào bao quanh lâu đài và bước vào một mảnh đất trồng toàn cây trăn, nơi ấy có một cái lều, sân nuôi gà và sân nuôi vịt. Bà lão chủ nhà ngồi giữa lều, cụ nhớ không sai mảy may tất cả số trứng và số gà con từ khi chúng mới nở đến nay. Cụ chẳng phải là kho truyện mà ông bạn chúng ta đang tìm đâu, cụ chỉ có thể cho ta xem những giấy chứng nhận rửa tội và chứng nhận tiêm chủng, tất cả đựng trong một hộp lớn.

Phía ngoài, không xa nhà mấy, có một cái gò toàn gai góc và kim tước chi.
Nơi ấy có một tấm mộ chí lớn bằng đá, mang ở nghĩa địa thành phố về từ bao năm nay. Đó là tấm bia giương danh một ông thị trưởng. Hình bà vợ và năm cô con gái mặc áo cổ xoè đang đứng chắp tay quanh ông ta được tạc trên bia.

Không thể nào ngắm nghía tấm bia ấy mà tâm hồn không xúc cảm. Tấm bia như kể lại với ta truyện những ngày đã qua. Hơn ai hết, ông bạn chúng ta cũng mủi lòng.

Khi bước tới nơi, ông thấy một chú bướm rất đẹp đậu trên trán ông thị trưởng. Bướm tung cánh, bay lượn rồi lại đậu gần bên tấm mộ chí, như muốn mách rằng nơi ấu có vật báu, đó là một khóm cây chẽ ba, một chạc có bốn lá, mọc liền nhau.

Ông bạn của chúng ta hái lá chẽ ba bỏ vào túi, cho đó là một điềm lành, và nghĩ thầm: “Số đỏ thường lại tiếp vận may. Hạnh phúc cũng quý đấy, nhưng một truyện hay, độc đáo, đối với chúng ta, đáng quý hơn nhiều.” Rủi thay, ông chẳng tìm đâu ra truyện cả.

Mặt trời lặn, to tướng và đỏ rực. Hơi khói từ đồng cỏ bay lên.

Mụ phù thuỷ Đầm lầy đang đun nấu đấy.

Một tối kia, ông bạn của chúng ta đang ngồi một mình trong buồng, nhìn ra vườn hoa, đồng cỏ trước mặt và, xa tí nữa, là đầm lầy. Trăng sáng vằng vặc. Hơi khói tỏa lên. Đồng cỏ nom hệt một hồ nước lớn. Vả chăng, theo truyền thuyết, đó chính là một hồ nước lớn. Ánh trăng trùm lên cảnh vật một vẻ huyền ảo. Ông bạn của chúng ta nghĩ đến cuốn sách đã từng đọc, sách nói rằng Guyôm Ten và Ôgiê xứ Đan Mạch chẳng hề có thật, nhưng đã trở thành một thần tượng của nhân dân cũng như cái hồ này vậy. Ông tự nhủ:

-Thế thì có ngày Ôgiê xứ Đan Mạch cũng sẽ hiện về.

Đang suy nghĩ như thế, bỗng ông nghe thấy một tiếng đập khá mạnh vào cửa sổ. Chim chăng? Dơi chăng? Cú chăng? Nếu chúng có bay chạm vào cửa cũng chẳng ai mở làm gì. Nhưng cửa sổ bỗng mở toang ra, một bà già hiện lên nhìn ông chằm chằm. Ông tự hỏi:

-Mụ ta muốn gì thế nhỉ? Mụ ta là ai thế nhỉ? Mụ lên được tầng gác này chả biết có cần đến cầu thang không nhỉ?

Bà già nói:

-Nhà ngươi có cây chẽ ba, mỗi chạc có bốn lá, ở trong túi phải không? Có bảy chẽ tất cả, trong đó có một chẽ có sáu lá.

-Mụ là ai?

-Ta là phù thuỷ đầm lầy, chuyên nghề bứt cỏ nấu rượu bia. Ta đang mải mê với công việc thì một tên giúp việc đã tháo nút dưới đáy thùng làm bia chảy ra, thế là đi tong cả.

-Cho tôi biết…

-Chờ đấy, ta bận tí việc.

Nói rồi, mụ biến mất.

Ông bạn của chúng ta sắp sửa đóng cửa sổ lại thì mụ lại hiện lên.

 Mụ nói:
-Xong việc rồi đấy. Nhưng ngày mai nếu tốt trời thì ta bận gây nốt nửa thùng rượu bia. Thế nào? Ngươi định hỏi gì ta đấy? Ta trở lại, vì bao giờ ta cũng giữ lời hứa và cũng vì trong túi ngươi có bảy nhánh chẽ ba, mỗi chạc bốn lá, trong đó có một chạc sáu lá. Chẳng phải ai ai cũng kiếm được loại chẽ ba ấy đâu. Xem nào, ngươi hỏi gì ta thế? Còn đứng đực ra như phỗng ấy thì ta sẽ bỏ về với thùng rượu của ta đấy!

Ông bạn của chúng ta hỏi mụ có gặp Truyện ở đâu không.

-Trời, mụ kêu lên, Truyện của nhà ngươi viết ra nhiều như thế mà còn chưa đủ hay sao? Ta tưởng nhà ngươi no Truyện rồi chứ lị! Thời bây giờ người ta mải mê với những cái khác kìa. Ngay cả trẻ con cũng ngấy truyện đời xưa đến tận cổ rồi! Cho con trai điếu xì gà, con gái manh áo mới, chúng thích hơn nhiều. Ngồi mà nghe kể chuyện ư? Xin đủ, xin đủ! Còn trăm công nghìn việc cần hơn thế.
-Thế là thế nào? Mụ chỉ chuyên sống với cóc nhái và ma trơi thì còn biết cái gì khác ở đời này kia chứ?
Mụ già đáp:

-Đừng có coi thường tụi ma trơi! Ta thả chúng ra rồi đấy. Ta còn phải nói với nhau rất nhiều về chúng đấy. Nhưng ngươi hãy đi với ta, ta cần phải về đầm lầy bây giờ. Về đến đấy ta sẽ nói tất. Nhanh, nhanh lên một tí, kẻo bảy nhánh lá chẽ ba héo đi và trăng lặn mất.
Nói rồi, mụ phù thuỷ biến đi.

Chuông nhà thờ điểm mười hai tiếng. Trước tiếng chuông thứ tư ông bạn của chúng ta đã ra khỏi sân, qua vườn và đi tới đồng cỏ. Sương mù đã tan vì mụ phù thuỷ đã ngừng nấu rượu.

 Mụ bảo:
-Người đi lâu thật. Thế mới biết, phù thuỷ đi nhanh hơn người thường.
-Mụ định nói gì với ta? Có định nói về Truyện không đấy?
-Thế ngươi không còn điều gì khác để hỏi ta hay sao?
-Thế mụ hãy nói về tương lai của thơ ca cho ta nghe xem nào!
-Chớ có vội cáu, ta sẽ trả lời. Người chỉ chăm chăm hỏi ta về Thơ và Truyện. Đúng! Ta biết nhiều về văn thơ. Hồi còn trẻ ta đã là một thần tí hon xinh đẹp, thường vẫn nhảy với các thần tí hon khác dưới ánh trăng. Bọn chúng ta thường nghe hoạ mi hót và dạo chơi trong rừng. Khi thì Truyện ngồi suốt đêm trong một bông hoa ngoài đồng cỏ, lúc thì Truyện lách vào nhà thờ, chui vào những bông hoa bày trên bàn thờ.

-Mụ biết tường tận nhỉ?
-Về điểm gì chứ về điểm ấy ta chẳng kém ngươi…Truyện và Thơ cũng cùng một mẹ đẻ ra cả. Đặt chúng vào chỗ nào mà chẳng được. Mà là ra chúng chẳng tốn là mấy. Ta sẽ cho không ngươi một ít. Đây là một chiếc rương đầy thơ đóng thành chai. Nước cất, loại tinh tuý nhất của thơ đấy, dịu ngọt cũng có, cay đắng cũng có. Trong các chai của ta có đủ những gì mà con người đòi hỏi ở thơ ca, chỉ cần mỗi chủ nhật rẩy một tí vào khăn mùi soa là đủ.

Ông bạn chúng ta nói:
-Ta rất đỗi ngạc nhiên. Mụ có thơ đóng vào chai thật ư?
-Có quá đi chứ. Ngươi còn lạ gì truyện con bé giẫm lên bánh mì mà đi để giày khỏi bẩn? Truyện ấy đã được viết và xuất bản.
-Chính ta kể truyện ấy chứ ai.

-À, hẳn là ngươi đã biết rằng con bé ấy đến nhà ta đúng vào hôm bà nội Quỷ sứ đến thăm ta. Mụ ấy thấy con bé, bèn xin ta mang về làm kỷ niệm buổi viếng thăm ấy. Ta đã cho mụ con bé và mụ đã biếu lại một vật chẳng có ích lợi gì cho ta. Một chiếc rương lớn, đựng đầy thơ đóng chai. Mụ đã khuyên ta nên để chúng vào chỗ nào. Vẫn còn đủ cả đấy. Ngươi vào mà xem. Ngươi có bảy nhánh chẽ ba, trong đó một nhánh có sáu lá, nhờ có chúng ngươi mới có thể nhìn thấy những chai ấy.

Quả nhiên ông bạn của chúng ta trông thấy chiếc rương của bà thằng Quỷ sứ ở giữa đầm lầy. Mụ phù thuỷ và tất cả những người biết nơi để rương, bất kể người đó ở thời đại nào và thuộc dân tộc nào, đều có thể mở rương ấy ra. Có thể mở cả mặt trước, mặt sau, và tứ phía. Đây là một cái rương rất quý, những nhà thơ của các nước, đặc biệt là của nước ta, được giới thiệu trong đó, sáng tác của họ đã được tinh chế, sửa chữa, cô đặc lại và đóng vào chai. Với một tài năng vững vàng, nếu không gọi là thiên tài, bà nội thằng Quỷ sứ đã thu góp từ trong thiên nhiên tất cả những cái gì hợp với phong cách của một thi sĩ, rồi pha vào đó một ít tính chất của ma quỷ, thế là được chất thơ của tất cả các thi sĩ đóng vào chai để dùng mãi mãi về sau.

Ông bạn của chúng ta yêu cầu:
-Cho ta xem nào!
-Được, nhưng nghe thì hay hơn nhiều.
-Xem qua tí đã. Thật là đủ các cỡ chai. Chai này đựng gì? Chai kia đựng gì?

Mụ phù thuỷ đáp:
-Trong chai này có chất hương tháng năm. Ta chưa thử, nhưng ta biết rằng nếu ai rỏ một giọt xuống đất liền thấy ngay một cái ao rất đẹp, có đồng cỏ đầy hoa khê tôn ngũ sắc và thạch thảo bao quanh. Nếu ai rỏ hai giọt lên quyển vở một câu học sinh bình thường, quyển vở sẽ biến ngay thành một vở hý kịch thơm nức đến nỗi chỉ ngửi thôi cũng đã ngủ lịm đi rồi. Thật là vinh dự cho ta vì ta được họ nêu danh vào nhãn hiệu của chai đó: “Nước giải khát của bà phù thuỷ đầm lầy.” Ngươi có thấy không?
“Còn đây là chai chứa những chuyện vô sỉ. Nom tựa như nước nguyên chất trong vắt, có phải không? Đúng đấy, nhưng có pha ba thìa chất dối trá và hai giọt chất sự thật, lại gia thêm một tí máu dân chài và một tí thịt thày giáo.”

“Rồi đây là những chai thơ luân lý. Mỗi giọt rơi xuống vang lên như tiếng cửa mở dưới địa ngục.
Cái chai to tướng ở phía kia kìa, chiếm đến nửa rương, là chai quý nhất đựng tất cả các truyện cổ kim. Chai ấy được đậy nút kỹ để nước bên trong khỏi bị hả hơi. Tất cả các món ăn quốc hồn quốc tuý của các dân tộc đều có trong đó. Chỉ cần dốc ngược chai và xúc lên là người Đức sẽ thấy trong ấy món nước sốt triết học của mình, người Anh: món nước dùng nấu với khoa sư phạm của họ, và người Pháp: món canh hổ lốn của họ , mà người Đan Mạch chúng ta vẫn thường gọi là món cháo vịt. Nhưng theo ta, ngon nhất vẫn là món xúp của kinh thành Côpenhagơ.

Ông bạn của chúng ta mải mê suy nghĩ. Mụ phù thuỷ đầm lầy nói tiếp:
-Ngươi đã xem và biết rương của ta đựng gì rồi. Nhưng ta muốn báo cho ngươi một tin quan trọng hơn thế nhiều, mà ngươi chưa hề biết: “Trong thành có ma trơi”. Việc này quan trọng hơn Thơ và Truyện. Đáng nhẽ ta không nói thêm gì nữa, nhưng có một sức mạnh thần bí thúc đẩy ta phải loan báo: “Trong thành có ma trơi! Chúng được thả ra rồi đấy. Loài người hãy coi chừng.”
-Sao nữa? Ta chẳng hiểu gì cả.

Mụ phù thủy tiếp:
-Hãy ngồi lên chốc rương một lát, nhưng chớ có làm bẹp rương, vỡ chai của ta đấy! Hẳn là ngươi đã biết giá trị của những thứ trong ấy! Ta sẽ kể cho ngươi nghe cái tin trọng đại vừa mới xảy ra hôm qua.
Trong đầm lầy này, hôm qua, có hội lớn. Người thử tưởng tượng xem có mười hai con ma trơi ra đời. Chúng thuộc vào loại có thể biến hình thành người, hành động và liên kết với nhau như người thật vậy. Đó là một sự kiện lớn lao trong đầm lầy, nên ma trơi đực và ma trơi cái nhảy múa cả ngày đến hết cả hơi. Nhưng đây không phải là chuyện chính.

“Khi ấy, ta cũng ngồi trên chiếc rương như ngươi bây giờ, đang ẵm mười hai đứa ma trơi mới nở, chúng lập lòe như đom đóm. Trong nháy mắt chúng đã lớn hẳn lên và bắt đầu nhảy múa. Chưa đầy mười lăm phút sau chúng đã to bằng người lớn rồi.

Giờ ta phải cho ngươi biết rằng, theo lệ trong giang sơn ta, những đứa ma trơi nào sinh ra trong ngày trăng tròn và có gió to, như hôm qua, đều được phép biến thành người và sống như người thật trong suốt một năm. Chúng có thể bay quanh thế giới, nếu chúng không sợ rơi xuống biển hay bị bão táp vùi dập. Ma trơi còn nhập được vào linh hồn con người, bắt người ta phải nói và hành động theo ý chúng. Hơn nữa, chúng có quyền nhập vào cả đàn ông lẫn đàn bà, nhưng trong một năm chúng phải làm hư hỏng cho được ba trăm sáu mươi lăm người, làm cho họ xa hẳn chân lý và đạo đức. Con nào thành công sẽ được nhận phần thưởng cao quý nhất của loài ma trơi, được chạy trước xe của quỷ sứ, được một bộ quần áo lính hầu bằng vàng và một vòng lửa đeo cổ.

Nhưng trong khi đi tìm người để nhập vào, ma trơi gặp rất nhiều nỗi gian nguy. Nếu người trông thấy nó trước và thổi vào nó thì ma trơi lại rơi trở lại đầm lầy. Hơn nữa, trước cuối năm, nếu ma trơi nhớ nhà quá, không làm tròn nhiệm vụ thì nó không lập lòe được nữa và tắt ngấm hẳn đi. Nếu hết năm mà nó không làm cho đủ ba trăm sáu mươi lăm người xa lìa chân lý và đạo đức thì nó sẽ bị giam hãm trong một mẩu gỗ mục. Nó vẫn còn sáng, nhưng không cựa quậy được nữa, đó là hình phạt kinh khủng nhất đối với một con ma trơi.
Ta biết hết những điều đó và đã kể lại cho mười hai đứa ma trơi mới ra đời lúc ta ẵm chúng trên tay.
Chúng sướng điên lên.Ta bảo chúng: “Hãy coi chừng, tốt hơn hết là đừng nên làm người!”
Nhưng không! Chúng thích làm người cơ! Chúng đã mơ tưởng đến cái thú mặc quần áo vàng và đeo vòng lửa rồi. Một số ma trơi kỳ cựu bảo chúng: “Ở lại đây với chúng ta!” Một số khác lại nói: “Cứ đi mà hại lũ người. Chúng chẳng đã tát và vét cạn đầm lầy của ta đó sao? Rồi số phận con cháu chúng ta sẽ thế nào đây?”

-Không tha đứa nào cả!-Lũ ma trơi reo lên.
Thế là chúng quyết định ra đi.
Ông bạn của chúng ta nói:
-Thế là thành một truyện rồi.
Mụ phù thủy đáp:
-Đấy mới chỉ là đoạn đầu thôi.
Bây giờ mụ có thể kể cho ta biết những hành động của chúng. Chúng chọn những người nào và lừa dối họ bằng cách nào? Theo ý ta có thể viết cả một cuốn tiểu thuyết về ma trơi, gồm mười hai chương, mỗi chương kể chuyện một con ma trơi, hoặc hơn nữa, có thể viết thành một hý kịch dân gian.
-Thế thì viết đi! Hay thôi, đừng viết thì hơn.

-Phải, ta cũng thấy đừng viết có lẽ hơn. Ta sẽ tránh được những lời chỉ trích của báo chí. Khó chịu chẳng kém gì ma trơi bị giam vào gỗ mục, chỉ có thể lập lòe mà không nói năng cử động được.

Mụ phù thuỷ nói:
-Đúng đấy! Cứ để cho những người khác viết, những người biết chuyện và những người chẳng biết gì. Ta sẽ cho nhà người một chai thơ ca. Ta thấy hình như ngón tay ngươi đã khá nhem nhuốc những mực rồi đấy và ngươi cũng đã đến tuổi làm những việc lớn hơn là viết truyện. Ngươi đã nghe rõ truyện ta vừa kể chưa?
-Trong thành có ma trơi, phải, ta đã nghe thấy rồi. Nhưng ngươi muốn ta làm gì bây giờ? Đi tìm khắp phố phường, nhà cửa, đến ông thị trưởng hay ôn chưởng lý xem lũ ma trơi chui vào đầu óc người nào chăng? Theo lời ngươi, nhờ phép lạ của những nhánh chẽ ba có bốn lá, ta có thể dễ dàng nhận ra chúng. Đến lúc tìm ra những con ma trơi ấy thì ta sẽ báo cho ai mới được kia chứ? Ta không thể nào nói ra với những kẻ mà ma trơi đã nhập vào và nếu ta công khai nói lên điều ấy thì thiên hạ sẽ nhạo báng và phản đối ta. Mụ cứ tưởng tượng xem ta đang kêu lên: “Cẩn thận đấy, có một con ma trơi đang đội lốt một người lương thiện kia kìa!” thì sẽ ra sao? Dù sao ta cũng rất muốn viết lại truyện này.

Mụ phù thuỷ nói:
-Hơn nữa, chúng tản ra khắp nơi. Chúng lẻn vào nhà thờ làm cho cha cố lúc ấy cũng chẳng nghĩ gì đến quyền lợi của giáo dân nữa, mà chỉ nghĩ đến bản thân mình thôi. Chúng xâm nhập vào các tác giả và các nghệ sĩ…Nhưng thôi, ta đã quá ba hoa, có lẽ hại cho họ hàng ta quá lắm rồi. Thế là ta sắp cứu loài người mất rồi! Điều đó trái với ý ta, và ta cũng chẳng hy vọng gì kiếm được tấm huy chương. Rõ thật điên! Đem kể cả truyện ấy với một nhà văn để ông ta kể lại cho cả thành phố biết!

Ông bạn của chúng ta nói:
-Nhân dân thành phố chẳng thèm để ý đến đâu! Họ sẽ tưởng rằng đó là một truyện hoang đường mà ta kể cho họ, mặc dù ta có hết sức nghiêm chỉnh báo cho họ rằng: “Trong thành có ma trơi đấy, mụ phù thuỷ đầm lầy bảo tôi thế, các bạn coi chừng!”

Cô bé tí hon

Ngày xưa có một bà hiếm hoi, mong có một đứa con mà mãi không được. Bà phải tìm đến một mụ phù thủy để nhờ giúp. Bà nói:

- Tôi muốn có một đứa con, bà bảo giùm tôi phải làm thế nào.

- Ta sẽ giúp - mụ phù thủy trả lời - Hãy cầm hạt lúa này. Nó không giống như lúa mì vẫn mọc ngoài đồng, cũng không giống lúa vẫn cho gà vịt ăn. Đem về gieo vào chậu hoa, một thời gian sau sẽ biết.

- Cảm ơn bà - bà hiếm con trả công và chào mụ phù thủy rồi đem hạt lúa về nhà gieo. Chẳng mấy chốc nó mọc thành một cây hoa tuyệt đẹp, giống như hoa uất kim cương, nhưng cánh hoa cuộn lại như một cái nụ.

- Hoa đẹp quá!- Bà thốt lên và đặt môi lên hoa. Nhưng bà đang hôn bông hoa thì bỗng có tiếng động mạnh làm hoa bừng nở. Nhìn bông hoa, bà ngạc nhiên thấy ở giữa bông hoa có một cháu bé xinh đẹp ngồi trên nhụy hoa, như ngồi trên chiếc ghế tựa màu xanh. Bé chỉ lớn bằng ngón tay cái nên bà đặt tên cho bé là Bé tí hon.

Bà lấy vỏ hạt dẻ để làm cho bé một chiếc nôi rất đẹp, bên trong trải nệm bằng cánh hoa tím, chăn đắp cho bé là một cánh hoa hồng. Ban đêm bé ngủ ở đấy, còn ban ngày bé chơi trên bàn. Bà đặt trên bàn một cái đĩa đựng đầy nước, vành đĩa khoanh một vòng hoa. Cánh hoa nổi trên mặt nước. Có một cánh hoa cánh hoa uất kim cương to dùng làm thuyền. Bé ngồi vào đấy dạo chơi như dạo thuyền, một chiếc lông ngựa dùng làm mái chèo. Bé vừa chèo vừa hát, giọng thật êm ái, dịu dàng.
Một đêm, bé tí hon đang ngủ, bỗng một con cóc to tướng vừa béo vừa nhớt trông phát khiếp chui qua ô kính vỡ trên cửa sổ vào phòng và nhảy lên bàn, nơi cô bé tí hon đang ngủ dưới cánh hoa hồng.

Nó nghĩ thầm:

- Con trai mình được con bé này làm vợ, hẳn là cu cậu sướng mê.

Thế là nó chộp lấy cái vỏ hạt dẻ, trong có Bé tí hon đang ngủ, chui qua ô kính vỡ nhảy ra vườn. Trong vườn có một dòng suối nhỏ, hai bờ lầy lội. Đấy là chỗ ở của hai bố con nhà cóc. Khiếp! Cóc con cũng béo phị như bố, trông rất sợ. Hai bố con sao giống nhau đến thế!

Trông thấy cô bé xinh đẹp trong vỏ hạt dẻ, cóc con reo lên: cọc, cọc, cọc, kẹc, kẹc, kẹc!

Cóc bố bảo:

- Khẽ chứ! Không nó thức dậy, nó trốn mất. Chúng ta sẽ đặt nó lên một lá sen to. Nó bé, ở đấy như ở một hòn đảo, không chạy trốn đi đâu được. Chúng ta sẽ làm cho nó một căn nhà ở ngay chỗ bùn lầy này.

Giữa dòng suối có nhiều gốc sen, lá xòe to bập bềnh trên mặt nước. Cóc bố bơi ra giữa dòng suối, nơi có tàu lá to nhất, đặt chiếc vỏ hạt dẻ đựng bé Tí hon vào đấy.
Sáng hôm sau, thức dậy Bé Tí hon thấy mình đang ở trên tàu lá, bốn chung quanh là nước. Nó sợ quá, òa lên khóc, không có cách vào bờ.

Lúc này, bố con nhà cóc đang trang hoàng phòng cưới, căng lên tường những chiếc lá sen xanh, đính lên những bông sen trắng với những nhị sen vàng. Xong rồi hai bố con bơi ra tận giữa suối đón dâu.

Cóc già cúi chào bé Tí hon và nói:

- Ta giới thiệu với con đây là thằng con trai ta. Chồng của con đấy. Hai con sống trong căn phòng đẹp đẽ giữa chốn bùn lầy này.

Cóc con lại: Cọc, cọc, cọc, kẹc, kẹc, kẹc!

Hai bố con ngậm tàu lá sen to lôi vào bờ. Bé Tí hon ngồi trên tàu lá khóc sướt mướt. Nó không muốn ở nhà của lão cóc già ghê tởm và không muốn lấy thằng con trai gớm ghiếc của lão.

May sao lúc ấy có đàn cá con đang bơi lội dưới suối trông thấy. Chúng nhô lên mặt nước để xem cô bé.
Chúng thấy bé xinh quá lại rất buồn vì phải sống với hai con cóc ghê tởm.

- Không! Không thể để thế được!

Đàn cá bảo nhau và bơi đến dưới tàu lá có Bé Tí hon đang ngồi trên và cắn đứt cuộng sen. Thế là dòng nước cuốn tàu lá đi, đưa cô bé ra xa, rõ xa, bố con nhà cóc không thể bơi tới đó được.

Bé Tí hon trôi qua nhiều thành phố. Chim chóc trong bờ bụi hót rằng:

- Cô bé xinh quá!

Tàu lá đưa cô bé qua nhiều xứ lạ. Một con bướm trắng bay lượn hồi lâu trên đầu cô bé đậu xuống tàu lá. Cô bé sung sướng vì thoát khỏi hai bố con nhà cóc lại được ngắm nhìn phong cảnh đẹp ở những miền đất xa lạ tàu lá trôi qua. Dưới ánh nắng, nước suối lóng lánh như vàng lỏng. Cô bé cởi dây lưng, buộc một đầu vào cánh bướm, một đầu vào tàu lá. Khi bướm bay nó kéo theo cả tàu lá. Bỗng một con bọ dừa xuất hiện, lấy chân quắp cô bé đem đến một cành cây, chiếc lá thì vẫn chao lượn cùng con bướm. Bướm cố gỡ ra khỏi dây buộc mà không sao gỡ được.

Khi bọ dừa đem Bé Tí hon lên cây. Bé sợ lắm. Bé sợ cả cho bướm tội nghiệp bị buộc chặt vào tàu lá, nếu không được ai gỡ ra cho thì bướm chết đói mất. Nhưng bọ dừa có nghĩ gì đến chuyện ấy! Nó đặt Bé Tí lên môt chiếc lá to, đem nhụy hoa đến cho Bé ăn và khen Bé đẹp.

Nhiều bọ dừa bạn bè nó đến chơi, nhìn chằm chằm Bé Tí hon và nói những câu láo xược. Một ả bọ dừa trẻ kêu lên

- Nó chỉ có hai chân thôi các bạn ạ!

Một con khác vội thêm:

- Nó không có râu chúng mày ạ!

Nhiều con khác chế nhạo:

- Trông nó xấu như giống người vậy!

Thật ra Bé Tí rất xinh. Lúc mới đem Bé Tí về, nó có nghĩ như các bạn nó đâu. Chỉ có các bạn nó dèm pha, nói ra nói vào mãi nên bọ dừa cũng tin là Bé Tí xấu và không thích Bé nữa và đem Bé đặt xuống một cây cúc trắng.
Tưởng rằng mình xấu đến mức bọ dừa cũng không ưa, Bé Tí khóc nức nở, buồn phiền. Nhưng thật ra thì Bé rất xinh, thanh tú, dịu dàng, chẳng khác gì một cánh hồng.
Bé Tí hon sống một mình suốt mùa hạ trong khu rừng lớn. Bé lấy cọng rơm làm cho mình một cái võng, treo dưới một lá thu mẫu đơn to để tránh mưa. Bé ăn nhuỵ hoa và uống những hạt sương rơi. Bé sống như vậy suốt cả mù hè và cả mùa thu. Nhưng rồi mùa đông đến, mùa đông dài dằng dặc và lạnh giá. Những con chim nhỏ thường hót cho Bé nghe giờ cũng bay đi tránh rét. Cây rụng hết lá, hoa đều tàn, chiếc lá thu mẫu đơn che chỗ nằm cũng héo quắt, chỉ còn lại chiếc cọng vàng khô. Quần áo rách bươm, Bé rét run.

Tuyết rơi, mỗi giọt tuyết rơi xuống Bé nặng như hòn đá không chịu nổi. Bé núp mình trong một chiếc lá khô, nhưng chẳng ấm thêm chút nào, vẫn rét run cầm cập.
Bé Tí hon bỏ khu rừng đến một ruộng lúa gần đấy. Ruộng lúa vừa mới gặt chỉ còn gốc rạ từ dưới đất giá lạnh tua tủa gai đâm lên. Đi qua đám ruộng, Bé Tí hon cũng thấy vất vả như người đi qua một cánh rừng, nó đi chệnh choạng ngã lên ngã xuống nhiều lần. Bé Tí hon lần được đến cổng nhà mụ chuột đồng - một cái hốc dưới gốc rạ. Chuột đồng sống ở đấy rất thoải mái, lại có đầy lúa và các thức ăn khác. Bé Tí hon vào nhà mụ chuột đồng xin một hạt lúa mạch ăn cho đỡ đói, đã hai hôm nay bé không được ăn gì vào bụng.

Chuột đồng bảo:

- Tội nghiệp con bé! Vào đây ăn với ta cháu ạ!

Thấy Bé Tí hon dễ thương, chuột bảo:

- Cháu có muốn ở đây với ta không? Chỉ cần giữ gìn nhà cửa cho sạch và kể chuyện cho ta nghe. Ta thích nhất là nghe kể chuyện.

Bé Tí hon làm theo lời chuột và được chuột đối đã tử tế.
Một hôm chuột nói:

- Sắp có khách sang chơi đấy. Ông bạn láng giềng ta là một người giàu có, nhà cao cửa rộng. Ông thường mặc chiếc áo lông đen nhánh như sa tanh. Cháu mà lấy được ông ta thì may lắm. Nhưng ông ta mù, cháu phải kể chuyện cho ông ta nghe.

Rồi ngay hôm ấy, Chuột chũi hàng xóm đến thăm Chuột đồng. Hắn mặc bộ áo lông đen nhánh như sa tanh.

Chuột đồng nói là hắn giàu và có học. Nhà hắn rộng gấp hai mươi lần nhà các con Chuột Chũi khác. Nhưng hắn không thích nắng và hoa. Hắn luôn nói xấu ánh nắng và hoa. Chúng bảo Bé Tí hon hát. Bé hát rằng: "Bay đi! Bọ dừa bay đi". Bé hát rất hay. Giọng bé dịu dàng, Chuột chũi nghe thích lắm, nhưng hắn không nói gì.

Chuột chũi đã đào một ngách từ nhà hắn ăn thông sang nhà Chuột đồng. Hắn mời Bé Tí hon và bạn bè hắn vào đấy chơi. Trong hang có xác một con chim chết rét. Chuột chũi ngậm một mẩu gỗ mục nát có phát ra ánh sáng đi trước soi đường. Đến gần chỗ xác con chim, chuột chũi lấy mõm húc lên trần cho thủng một lỗ, để cho ánh sáng lọt vào.

Nhờ có ánh sáng họ trông thấy con chim én nằm giữa hang, hai cánh gập lại, lông che kín đầu, chân co quắp. Rõ ràng là chim đã chết rét! Thật tôi nghiệp! Bé Tí hon thương chim lắm. Nó đã hót cho Bé nghe suốt cả mùa hè. Nhưng chuột chũi lại lấy chân đẩy chim én và nói:

- Nó không hót được nữa! Buồn thay cho số phận những con chim bé nhỏ! Ngoài tiêng kêu chiêm chiếp chim chẳng biết gì nữa, rồi cứ đến mùa đông lại chết rét. Lạy trời đừng bắt các con tôi sau này hoá thành chim.

Chuột đồng hưởng ứng:

- Bác nói rất đúng! Ngoài tiếng kêu chiêm chiếp chim có biết làm gì đâu! Mùa đông tới là chết đói và chết rét.

Bé Tí hon không nói gì; đợi lúc hai con chuột quay lưng đi, nó cúi xuống, vạch lông chim, hôn lên hai mắt nhắm nghiền của chim và nói:

- Đúng con chim này đã hót cho mình nghe suốt cả mùa hè vừa qua. Con chim xinh quá, hót thật là hay.

Ở nhà Chuột chũi ra về, suốt đêm Bé Tí hon không ngủ được. Bé vùng dậy lấy rơm tết thành một cái chăn đem đắp cho con chim chết rét. Bé còn lấy nhuỵ hoa đem phủ xung quanh thân chim. Bé nói:

- Vĩnh biệt chim thân yêu. Cảm ơn chim đã hót cho ta nghe suốt cả mùa hè, khi ánh nắng sưởi ấm chúng ta, cây cối xanh tươi và làm dịu mắt ta.

Bé Tí hon lấy tay ghì đầu chim vào ngực mình. Bỗng Bé thấy có vật gì động đậy dưới tay Bé. Đó là trái tim của chim. Con én chỉ mới bị cóng vì rét, giờ đây được sưởi ấm nó tỉnh lại.

Mùa thu én thường bay về phương nam tránh rét. Nếu có con nào lọt lại thì nó bị rét cóng, rơi xuống và bị tuyết vùi.

Nghĩ vậy, Bé Tí hon thương con chim, lấy thêm nhuỵ hoa rắc lên mình, lấy lá bạc hà Bé thường dùng làm chăn đắp phủ lên đầu chim.

Đêm hôm sau Bé Tí hon trở lại thăm chim, thấy chim vẫn sống, nhưng yếu lắm, chỉ mở mắt một tí nhìn Bé rồii lại nhắm nghiền. Bé đứng cạnh chim, cầm một mẩu gỗ mục thay đèn. Một lúc chim cất tiếng nói:

- Cảm ơn cô bé lắm! Cảm ơn cô bé thân yêu! Tôi thấy trong người đã nóng lên, đã lại sức. Tôi sẽ có thể bay về nơi ấm nắng cùng với bè bạn.

Bé Tí hon đáp:

- Chớ! Bên ngoài đầy băng tuyết còn lạnh lắm. Chim cứ ở lại đây, nằm cái giường bé nhỏ này. Tôi sẽ chăm sóc cho chim rất chu đáo.

Bé lấy một cánh hoa múc nước đem lại cho chim én. Uống nước xong, chim én kể hco Bé nghe chuyện chim bị thương ở cánh khi bay từ trong một bụi gai ra, vì vậy không kịp bay theo đàn và rơi xuống đất. Chim chỉ nhớ được có thế và không biết sau đấy thế nào, bây giờ đang ở đâu.

Chim én ở lại trong hang suốt mùa đông và được Bé Tí hon hết lòng chăm sóc. Nó rất yêu quý Bé. Chuột đồng và Chuôt chũi không biết tý gì. Nếu biết chúng đã đuổi chim đi.

Mùa xuân đã đến. Những tia nắng đầu tiên xuất hiện. Chim én hỏi Bé Tí hon có muốn đi theo không. Chim sẽ cõg Bé trên lưng đưa về rừng. Nhưng Bé Tí hon lắc đầu nói:

- Tôi không muốn làm như thế. Làm thế là phụ ơn chuột đồng.

- Thế thì từ biệt bạn thân yêu.

Chim én nói rồi bay vút lên không, giữa bầu trời chan hoà ánh nắng. Bé Tí hon buồn rầu nhìn theo, Bé cũng rất mến chim, chim đi rồi Bé buồn. Suốt ngày Bé phải ở trong nhà, không ra ngoài nắng được ấm được, vì lúa ngoài đồng mọc lên cao. Đối với Bé, thửa ruộng lúa ấy rậm rạp như một cánh rừng.

Một hôm Chuột đồng bảo bé:

- Mùa hạ chỉ còn thời gian nữa, lễ cưới sáp đến nơi rồi, ông bạn láng giếng đã đem lễ sang dạm hỏi. Cần phải sửa soạn quần áo mới cho cháu. Ta sẽ cho cháu nhiều của hồi môn để cháu đem về nhà chồng.

Rồi chuột đồng bảo Bé ngồi quay sợi. Cả bốn con nhện dệt đêm ngày. Chiều nào Chuột chũi cũng sang chơi và nói rằng hễ qua mùa hè, trời bớt nóng, là hắn cưới Bé Tí ngay.

Nhưng Bé Tí hon không ưa chuôt chũi. Nó không muốn lấy lão ta, muốn đi khỏi nơi đây. Sáng sáng, lúc bình minh, và chiều chiều lúc mặt trời sắp lặn. Khi gió thổi các bông lúa rạp xuống, hé cho Bé nhìn thấy bầu trời xanh biếc, bé lại mơ ước cuộc sống bên ngoài, mong Chim én bay trở lại.

Khi thu sang, quần áo cưới đã chuẩn bị xong, chuột đồng bảo Bé:

- Bốn tuần nữa thì làm lễ cưới.

Bé Tí hon oà lên khóc, nói rằng không thích chuột chũi.
Chuột đồng mắng:

- Đừng có õng ẹo! Tao gả mày vào nơi danh giá thế còn gì! Đến ngay Hoàng đế cũng chả cón bộ áo xa tanh đen bóng như nó. Mày phải cảm ơn Trời phật mới đúng chứ!
Đến ngày cưới, Chuột chũi tới để đem Bé Tí hon đi. Bé phải xuống dưới hang với chuột chũi, xa ánh nắng, vì chuột chũi ghét ánh sáng. ở nhà chuột đồng ít ra Bé cũng còn có thể đứng ở cửa hang ngắm mặt trời mọc.

- Mặt trời nóng ấm ơi! Vĩnh biệt! Bé vừa nói vừa giơ tay lên.

Rồi Bé tí hon rời nhà chuột đồng.

- Vĩnh biệt! Vĩnh biệt! - Bé vòng tay ôm một bông hoa nhỏ - Nếu hoa có thấy chim én cho ta gửi lời chào.

- Chiêm chiếp! Chiêm chiếp!

Vừa lúc ấy, Bé Tí hon nghe có tiếng chim hót trên đầu. Bé nhìn lên. Đúng là chim én!

Chim én nhìn thấy Bé mừng quá! Bé kể cho chim nghe nỗi buồn phải lấy chuột chũi, phải xuống ở hang sâu, phải xa mặt trời.

Chim én nói:

- Mùa đông sắp đến rồi, tôi sắp quay về xứ nóng. Bé có muốn cùng đi với tôi thì trèo lên lưng tôi, lấy dây lưng buộc người vào mình tôi. Chúng ta trốn xa chuột chũi và chỗ ở ghê tởm của nó. Chúng ta sẽ đi thật xa, qua núi non đến những xứ nóng, ở đấy có ánh nắng chan hoà, suốt năm lúc nào cũng như mùa hạ, hoa lá cỏ cây xanh tươi đẹp đẽ. Trốn đi với tôi, Bé Tí hon thân yêu, người đã cứu sống tôi lúc tôi đã nằm cứng đơ dưới hang sâu nhà chuột chũi.

- Vậy thì chúng ta đi thôi!

Bé Tí hon đáp và trèo lên lưng chim én, lấy thắt lưng buộc mình vào lông chim.

Chim én vút lên không trung, bay qua hết rừng này đến biển nọ, bay qua những ngọn núi tuyết phủ quanh năm. Bé Tí rét run chúi vào bộ lông dày của chim én, chỉ ló đầu ra nhìn tất cả những cảnh huy hoàng dọc đường.
Rồi đôi bạn tới vùng xứ nóng. ở đây nắng chói lọi, trời lồng lộng cao. Trên cành cây đung đưa những chùm nho mọng quả đen đẹp, những cam chanh chíu chít. Có những đứa trẻ xinh đẹp chơi đùa trên đường cái.

Chim én vẫn bay xa mãi, phong cảnh mỗi lúc một đẹp hơn.

Cuối cùng chim én đưa Bé Tí hon đến một nơi, dưới bóng cây xanh, gần một dải hồ nước xanh biếc, sừng sững mọt toà lâu đài cổ bằng cẩm thạch trắng. Nho và câyu trường xuân leo kín các cột. Chim én làm tổ trên một cái cột ấy. Chim nói với Bé Tí hon:

- Nhà tôi đấy! Bé có thấy cỏ mọc ở dưới không. Tôi sẽ đặt bé xuống giữa đám cỏ, sống ở đấy, Bé sẽ thấy sung sướng.

- Vâng! - Bé Tí hon vỗ tay trả lời.

Ở đấy có một cái cột bằng cẩm thạch trắng vỡ làm ba mảnh, chung quanh mọc đầy hoa trắng rất đẹp. Chim én đặt Bé Tí hon xuống đấy trên một chiếc lá to. Bé bỗng ngạc nhiên khi thấy ở đây có một chàng trai bé nhỏ trong như thuỷ tinh. Chàng không to lớn gì hơn Bé Tí hon. Trong mỗi bông hoa đều có một người bé nhỏ như thế.

Chàng trai trong bông hoa cúc trắng là vua của họ.

- Bé Tí hon thì thầm với chim én

- Trời! anh chàng đẹp trai quá!

Hoàng tử tí hon rất sợ chim én, vì đối với chàng bé nhỏ và mảnh khảnh thì chim én quả là một con chim khổng lồ.
Vừa nhìn thấy Bé Tí hon, Hoàng tử mê say ngay. Chưa bao giờ chàng trông thấy một người con gái xinh đẹp như thế! Chàng nhấc chiếc mũ miện đang đội đặt lên đầu cô bé Tí hon ngỏ ý muốn lấy bé. Lấy chàng, Bé sẽ trở thành nữ chúa của các loài hoa.

Thật là đẹp đôi, chẳng như thằng Cóc con và lão chuột chũi!

Bé Tí hon bằng lòng. Từ mỗi bông hoa bước ra một nam, một nữ, quần áo sang trọng. Đôi nào cũng xinh đẹp, nhưg xinh đẹp nhất vẫn là đôi vợ chồng mới cưới. Người ta lắp cánh vào cho Bé Tí hon; Bé có thể bay từ bông hoa này sang bông hoa khác. Khắp nơi đều vui mừng. Trên ngọn cột đá cẩm thạch, chim én ráng sức hót mừng đôi tân hôn, tuy rằng chim rất buồn và nhớ cô bé.
Hoàng tử bảo Bé:

- Cái tên Bé Tí hon xấu lắm mà em thì lại rất đẹp. Từ nay tên em sẽ là là Tiểu Ngọc.

Tạm biệt! Tạm biệt! Chim én hót chào để rời xứ nóng, trở về phương Bắc.

Con chim én ấy làm tổ ở cạnh cửa sổ nhà người kể chuyện này. Nó dùng tiếng nói "chiêm chiếp!" mà kể chuyện trên đây cho ông ta nghe và nhờ đó chúng ta biết thêm được một chuyện.

ĐỀ THI ĐẪM MÁU: Chương 21

CHƯƠNG 21
3+1+3
Sáng sớm hôm sau, Phương Mộc đến gõ cửa phòng Mạnh Phàm Triết. Gõ liền mười mấy cái không thấy tiếng trả lời, Phương Mộc ngẩng đầu nhìn lên cửa sổ nhỏ, phía trên cửa không có ánh đèn, không biết Mạnh Phàm Triết đã đi ra ngoài hay là không muốn mở cửa.
Suốt cả một ngày, trong tâm trí của Phương Mộc là hình ảnh Mạnh Phàm Triết, khuôn mặt trắng nhợt và đôi mắt sâu thăm thẳm của cậu ta luôn hiển hiện trước mắt Phương Mộc.
Những nhà khoa học hành vi của FPI đã từng đưa ra một lý luận như sau: Nếu như một người trong lúc nhỏ có những hành vi như sau hoặc là đồng thời xuất hiện cả 2 loại trong đó, người này sau khi trưởng thành, khả năng phạm tội sẽ tương đối lớn: Đến độ tuổi nhất định nào đó vẫn đái dầm; phóng hỏa, ngược đãi con vật nhỏ hay những đứa trẻ nhỏ hơn nó. Nguyên nhân là do khả năng tự khống chế của những người này khá kém, tâm lý phản xã hội lại khá mạnh. Mà đứng từ góc độ tâm lý học, hành vi ngược đãi động vật luôn luôn xuất phát từ sự bất lực trong hiện thực và cảm giác lo lắng vì mất đi sự khống chế.
Rốt cuộc Mạnh Phàm Triết cảm thấy bất lực đối với cái gì, và cảm thấy mất đi sự khống chế đối với cái gì?
Một câu hỏi khác, tiếp sau đây cậu ta sẽ làm gì? Mạnh Phàm Triết là một người yếu ớt, nhưng tính tình ôn hòa, lương thiện. Xé nát bươm một con mèo đang còn sống rồi lại nuốt nó vào bụng, dù thế nào cũng không có vẻ như là hành động mà cậu ta có thể làm được. Từ tình hình tối hôm qua, có thể nhận thấy, lúc Mạnh Phàm Triết giết hại Tom, rõ ràng đang ở trạng thái ý thức mơ hồ.
Rốt cuộc là thứ gì đã khiến Mạnh Phàm Triết lún sâu vào tình trạng trở ngại tinh thần đến như vậy?
“Tom…bọn họ đều ghét nó…mình cũng không thể…dựa vào nó được nữa…”
Dựa vào?
Nếu như nói Mạnh Phàm Triết đang dựa vào Tom, một người có thể có được sự bảo vệ hay an ủi gì từ một con mèo đây?
Chuột? Phương Mộc biết Mạnh Phàm Triết sợ điểm danh, có lẽ cậu ấy còn sợ chuột.
Nuôi một con mèo, khiến cho trong tiềm thức mình cảm nhận được mình đang được bảo vệ, rõ ràng ở một mức độ nào đó có thể tiêu trừ nỗi sợ hãi đối với chuột.
Vấn đề là, hậu quả trực tiếp của cách làm này là khiến cho bản thân nảy sinh sự dựa dẫm đối với loại “bảo vệ” này, một khi loại “bảo vệ” này biến mất, cậu ta không những không tiêu trừ được tâm lý sợ chuột, ngược lại rất có thể còn gia tăng.
Nếu sự suy đoán ở trên được thành lập, vậy thì Mạnh Phàm Triết giết chết Tom mà mình yêu quý (cũng có thể coi là người bảo vệ), thì lại có mùi vị như dốc túi đánh một canh bạc cuối cùng, quyết một phen sống mái.
Nếu như một người có suy nghĩ như vậy, thì anh ta rất nguy hiểm.
Phương Mộc giữ mãi trạng thái miên man này đến tận giờ tự học buổi tối. Đặng Lâm Nguyệt sau khi bị Phương Mộc thờ ơ gần cả buổi tối, cuối cùng cũng mở miệng hỏi: “Anh đang suy nghĩ gì vậy?”
“Ờ, không có gì!” Phương Mộc cũng nhận ra thái độ của mình không được bình thường, cười tỏ vẻ hối lỗi với Đặng Lâm Nguyệt.
Cô không cười, cúi đầu tiếp tục đọc sách. Một lúc sau mới hỏi: “Anh đang nghĩ đến cô ấy phải không?”
“Ai cơ?” Phương Mộc bỗng chốc không kịp phản ứng, trong lòng rất bồn chồn, tại sao cô ấy lại quen với Mạnh Phàm Triết.
“Chính là… cô gái mà anh vẫn giữ ở trong tim.” Phương Mộc ngẩn người một lát, bất lực lắc đầu, “Em đừng nghĩ nhiều!”
Đặng Lâm Nguyệt ngẩng đầu nhìn vào mắt Phương Mộc, rõ ràng cô không hề tin lời Phương Mộc. “Anh nói với em về cô ấy được không?”
“Không!” Phương Mộc từ chối thẳng thừng.
Thời gian còn lại, Đặng Lâm Nguyệt không hề nói thêm câu nào với Phương Mộc, khi Phương Mộc đưa cô về ký túc xá, cô cũng không yêu cầu Phương Mộc ôm cô hay hôn cô rồi hãy đi giống như mọi khi, chỉ đơn giản nói một câu: “Em lên lầu đây”, rồi bỏ Phương Mộc một mình ở dưới khu ký túc xá nữ, một mình đi lên lầu.
Phương Mộc rất bất lực, đành phải quay người bước đi, sau khi đi mấy chục mét liền quay đầu nhìn, lại thấy Đặng Lâm Nguyệt đứng ở trước cổng ký túc xá nữ sinh đang nhìn theo cậu.
Phương Mộc quay người đi về phía Đặng Lâm Nguyệt, vừa đi được mấy bước thì Đặng Lâm Nguyệt quay người từng bước lên lầu. Phương Mộc do dự một lát, cuối cùng vẫn quyết định đi đến dưới lầu ký túc xá đợi mười mấy phút, thấy lần này Đặng Lâm Nguyệt không có ý định quay lại, lắc đầu quay về.
Yêu đương, là như thế này sao?
*******
Khi trở về khu ký túc xa, Phương Mộc đến phòng Mạnh Phàm Triết trước. Mặc dù nhìn từ ngoài cửa sổ vào có thể thấy trong phòng không bật đèn, nhưng Phương Mộc vẫn gõ cửa phòng cậu ta. Quả đúng như dự liệu, không có tiếng trả lời.
Hôm nay, Phương Mộc đã hỏi Trâu Đoàn Kết, Mạnh Phàm Triết vẫn không đi học, cũng không có ai nhìn thấy cậu ấy.
Đỗ Ninh đang ở trong phòng, thật đáng ngạc nhiên là cậu không ngồi trước máy vi tính chơi CS, mà đang ngồi ngay ngắn trước bàn học, bộ dạng rất nghiêm túc.
“Cậu làm gì vậy?” Phương Mộc đã quen với bộ mặt tươi cười toe toét của Đỗ Ninh, bộ dạng này của Đỗ Ninh khiến Phương Mộc cảm thấy hơi buồn cười.
“Cậu có thời gian không?” Đỗ Ninh nghiêm nét mặt, “Tớ muốn nói chuyện với cậu.”
“Nói gì?” Phương Mộc cảm thấy khó hiểu.
“Nói về chuyện cậu và Đặng Lâm Nguyệt.”
Phương Mộc nhìn chằm chằm Đỗ Ninh vài giây, “Hiếu kỳ? Hay vì nguyên nhân nào khác?”
“Không phải!” Đỗ Ninh dừng lại một lát, “Xuất phát từ lập trường bạn bè.”
Phương Mộc kéo ghế đến, ngồi xuống, châm một điếu thuốc, “Cậu muốn biết cái gì?”
“Cậu và Đặng Lâm Nguyệt… thực sự đang yêu nhau à?”
Phương Mộc do dự một lát, “…Coi như thế đi.”
“Cái gì gọi là coi như thế đi?” Đỗ Ninh kéo ghế lại gần Phương Mộc, “Cậu thích cô ấy không?”
Phương Mộc hít mấy hơi thuốc, trầm mặc một lát nói: “Nói thực, tớ cũng không biết!”
Cậu thực sự không biết, mấy hôm trước, cái tên Đặng Lâm Nguyệt chỉ có nghĩa “người bị hại”, thế nhưng, giờ đây cô ấy là “bạn gái” của mình. Mà quá trình này giống như một giấc mơ, thiếu cảm giác hiện thực, khiến người ta rơi vào trong đó mà không hề hay biết. Phương Mộc cảm thấy mình không phải là vừa mới nhận thức đến điều này, chỉ là mấy hôm nay, cậu luôn né tránh sự việc này.
Bởi vì cậu đã hơi quen rồi.
Quen với sự dịu dàng của người khác giới, lại kèm theo ánh mắt ngưỡng mộ.
Quen với việc có người tỉ mỉ quan tâm đến ăn uống nghỉ ngơi của mình.
Quen với việc bên cạnh mình có một cơ thể mềm mại thơm ngát.
Quen với những nụ hôn và vòng tay ôm ấp khiến người ta run rẩy.
Đỗ Ninh nhìn Phương Mộc thở dài, chậm rãi nói: “Thực ra là anh em với nhau, tớ rất ủng hộ cậu và Đặng Lâm Nguyệt thành một đôi. Hơn nữa tớ và Giao Giao cảm thấy hai người rất đẹp đôi, chỉ có điều các cậu tiến triển nhanh quá, đặc biệt lại vào chính lúc này, khiến tất cả bọn tớ đều cảm thấy rất bất ngờ.” Cậu ngừng một lát, “Cậu có biết mọi người đã bàn luận chuyện này như thế nào không?”
Phương Mộc chợt phát hiện ra nguyên nhân khiến Đỗ Ninh trịnh trọng bàn luận với cậu về việc này, “Rất nhiều người nói, cậu nhân cơ hội Lưu Kiện Quân bị thương cướp bạn gái của cậu ấy.”
Phương Mộc cười khan mấy tiếng, bản thân cậu bị người khác hiểu lầm đã không phải một hai lần nữa rồi, khi mới vào học, chẳng phải có người nói cậu là quái vật sao? Cậu không hề để ý.
“Cậu cũng nghĩ như vậy à?” Trầm mặc một lúc, Phương Mộc hỏi.
“Đương nhiên tớ không nghĩ thế! Tớ hiểu rất rõ cậu là người như thế nào”. Đỗ Ninh lập tức nói: “Nhưng tớ cũng vẫn không biết rốt cuộc chuyện này là như thế nào?” Phương Mộc rất không muốn tiếp tục đề tài này với Đỗ Ninh, nhưng nhìn ánh mắt cương quyết của Đỗ Ninh, cuối cùng kể hết mọi chuyện về Đặng Lâm Nguyệt và Lưu Kiện Quân cho Đỗ Ninh nghe.
Đỗ Ninh nghe xong một lúc lâu không nói gì, khi Phương Mộc châm điếu thuốc thứ năm, Đỗ Ninh đột nhiên đứng dậy, đặt mạnh tay lên vai Phương Mộc.
“Tớ ủng hộ cậu, người anh em”, Đỗ Ninh lớn tiếng nói, “Cậu không sai, Đặng Lâm Nguyệt cũng không sai, nếu như có người bàn tán các cậu, tớ sẽ giúp cậu giải thích.”
Phương Mộc đang định nói “cũng không cần đâu”, nhưng nhìn thấy bộ dạng đầy khí thế của anh chàng này, mỉm cười gật đầu.
Nửa đêm, Đỗ Ninh đã hoàn toàn yên tâm ngủ say, còn Phương Mộc thì trở mình liên tục, không tài nào chợp mắt được. Cuộc trò chuyện vừa rồi, đối với Đỗ Ninh mà nói có lẽ là một sự giải thích lý do đầy đủ, nhưng đối với Phương Mộc thì không hề giảm bớt những câu hỏi đối với chính mình. Mình thực sự yêu Đặng Lâm Nguyệt sao? Từ trước tới nay, Phương Mộc đều biết mình có một thứ năng lực này: Có thể nhìn xuyên thấu tâm lý của người khác. Rõ ràng Đặng Lâm Nguyệt thích mình, thế nhưng mình thì sao?
Bác sĩ cũng khó chữa được bệnh của chính mình, lúc này đây, cậu hiểu được hàm nghĩa của câu nói này. Cậu cảm thấy mình như một chiếc đèn pin, có thể chiếu sáng từng góc khuất trong bóng tối, nhưng lại không thể chiếu tới được chính mình.
“Có lẽ, chỉ là cần mà thôi.”
Ông trời sắp xếp cho mỗi người một con đường. Có con đường bằng phẳng, có con đường gập ghềnh. Còn con đường của tôi, là một con đường đầy chông gai và những mối nguy hiểm. Con đường này có máu tươi, có quái vật, có ký ức, có thương cảm. Bầu bạn cùng tôi lại chỉ có những người đã mất và những lời nguyền như trong cõi mộng.
Mình đã đi một mình quá xa, quá mệt.
Trong lúc mơ màng Phương Mộc dần dần ngủ thiếp đi. Câu hỏi trong lòng cũng chưa có đáp án, thực ra có đáp án hay không cũng có gì quan trọng chứ?
Cậu chỉ biết, khi ở trong lòng Đặng Lâm Nguyệt, thực sự, rất ấm áp.
*******
Thái Vĩ đến tìm Phương Mộc. Vừa bước vào cửa, anh đã nghiêng đầu nhìn Phương Mộc, “Hà hà, sắc mặt khá tốt đấy.” Phương Mộc biết anh đang trêu chọc chuyện của Đặng Lâm Nguyệt, không thèm để ý đến anh, nhưng anh chàng này dạo này gầy ghê quá, khoang mắt thâm đen, bộ dạng mất ngủ.
“Hôm nay sao không đi cùng đại tiểu thư lên lớp tự học?”
Bố mẹ Đặng Lâm Nguyệt đến trường thăm cô, buổi tối cùng đi ăn cơm. Cả một ngày Đặng Lâm Nguyệt đều ngầm ra hiệu Phương Mộc đi cùng cô, hy vọng bố mẹ mình cũng có thể gặp được Phương Mộc. Phương Mộc không đồng ý, có lẽ ấn tượng về mẹ Đặng Lâm Nguyệt hôm đó quá tệ. Ngoài ra, nếu như đi, rõ ràng là có ý, chàng rể tương lai đến bái kiến bố mẹ vợ, đây là điều Phương Mộc không mong muốn chút nào.
“Thế nào, có phát hiện mới à?”
“Không có, chẳng có chút tiến triển gì”, Thái Vĩ chẳng buồn khách khí nằm ngay lên giường Phương Mộc, “Chúng ta hiện nay chỉ biết ngồi đợi thôi, mẹ nó chứ, những ngày tháng này không biết bao giờ mới chấm dứt!”
Mấy hôm nay Phương Mộc đều suy nghĩ đến chuyện của Đặng Lâm Nguyệt và Mạnh Phàm Triết, không quan tâm chú ý nhiều tới vụ án. Nhìn thấy bộ dạng Thái Vĩ mệt mỏi rã rời, trong lòng cảm thấy hơi day dứt. Cậu giở ra một bao thuốc Phù Dung Vương đưa cho Thái Vĩ, rồi lại pha cho anh một tách trà đặc.
Thái Vĩ cúi đầu ủ rũ hút thuốc uống trà, sau khi trầm mặc một lúc, anh đột nhiên hỏi Phương Mộc: “Cậu cảm thấy đây là một người như thế nào?”
Phương Mộc ngẩn người, “Đặc điểm tâm lý và sinh lý của hắn chẳng phải tôi đã miêu tả tổng quát với anh rồi sao?”
“Ừ”, Thái Vĩ gật gật đầu, “Có một câu tôi không biết có nên nói hay không?” Anh nhìn Phương Mộc vẻ thăm dò, “Tôi luôn cảm thấy cái người này…rất giống cậu”.
Phương Mộc không lên tiếng, thực ra cậu cũng có thứ cảm giác này, hung thủ thiết kế mấy vụ án mạng đều là đang tiến hành khiêu chiến với Phương Mộc. Vậy thì người này có lẽ là hiểu biết rất nhiều về lĩnh vực tâm lý học tội phạm (Ít nhất, chính hung thủ cũng tự cho là như vậy), hơn nữa, trong ngôi trường này, Phương Mộc chỉ biết có hai người giỏi về khắc họa tâm lý, nghĩ đến đây, tâm trạng Phương Mộc bất giác trở nên nặng nề.
Lẽ nào là giáo sư Kiều.
Không đâu, không đâu. Phương Mộc lập tức phủ nhận suy nghĩ của mình. Bất luận đứng từ góc độ nghề nghiệp hay nhân cách, giáo sư Kiều đều đáng được xưng là mẫu mực. Hơn nữa, trình độ của mình còn thua xa giáo sư Kiều, ông không cần thiết phải khiêu chiến với mình. Hơn nữa, trong mấy vụ án này, hung thủ không những cần kỹ năng mà còn cần thể lực, rõ ràng giáo sư Kiều đã gần 60 tuổi, không thể làm được.
Đã gần 20 ngày kể từ khi xảy ra vụ án trước, hung thủ không hề có chút động tĩnh nào. Sự chờ đợi thế này đúng là một kiểu giày vò.
Bầu không khí trầm buồn dần dần lan tỏa giữa hai người như một đám khói vậy, nó chen ngang ở giữa, anh không nhìn rõ tôi, tôi không nhìn rõ anh.
Tương tự, cũng không nhìn rõ cái người đó.
Không biết bao lâu, Thái Vĩ đứng dậy, vươn vai cúi xuống nhìn đồng hồ.
“Gần 9 giờ rồi, tôi đi đến các trạm quan sát đây, cậu đi không?”
Phương Mộc nghĩ, dù sao mình cũng không có việc gì, liền gật đầu.
*******
Trọng điểm theo dõi của cảnh sát vẫn là khu ký túc xá nữ và những nơi mang số “6”. Địa điểm quan sát không giống nhau, nhưng những người cảnh sát đang canh giữ lại có chung một trạng thái: vô cùng mệt mỏi, tính tình nóng nảy.
Tình hình trực chiến không phân biệt ngày đêm này đã kéo dài hơn một tháng rồi, nếu là ai thì cũng đều không thể chịu đựng nổi.
Đi đến mấy nơi đều là “tất cả bình thường”. Nhìn thấy các anh em cấp dưới của mình ai nấy mặt mày xám xịt, nhưng vẫn kiên trì ở đúng cương vị của mình, Thái Vĩ cũng rất xót xa. Anh và Phương Mộc đi đến quán cơm trước cổng trường, gọi một ít cơm hộp cho mọi người ăn thêm. Phương Mộc nhìn mấy tờ tiền tội nghiệp trong ví anh, tự mình đến siêu thị mua hai cây thuốc lá.
Khi phát cơm hộp, những người cảnh sát đều vô cùng vui vẻ, sau khi đón lấy hộp cơm đều vội vàng đứng dựa vào tường hoặc ngồi xổm cúi đầu nhai ngấu nghiến. Những anh cảnh sát ăn uống nhồm nhoàm, ăn vội vàng đồ ăn đã hơi nguội lạnh, thỉnh thoảng có người cắn vào sạn cũng vội vàng nuốt luôn. Các nữ cảnh sát túm vào một chỗ, thì thầm bàn tán về mùi vị thức ăn, chia sẻ cho nhau từng miếng thịt, miếng cá, sau khi ăn xong còn không quên lấy ra tờ giấy ăn thơm tho đưa cho các đồng sự nam đang chuẩn bị lấy ống tay lau miệng.
Chỉ có điều, mỗi người đều vừa ăn vừa nhìn chăm chăm vào từng người đi qua, mặc dù trò chuyện cũng vẫn dỏng tai lên nghe ngóng từng tiếng động khả nghi.
Nhìn thấy những người cảnh sát tiều tụy nhếch nhác, nhưng lại cảnh giác từng giờ từng khắc như những người đi săn, trong lòng Phương Mộc bất giác nảy sinh sự kính trọng. Trong lúc chia thuốc, Phương Mộc cố ý đưa hai bao cho người cảnh sát đã bị cậu trêu chọc. Rõ ràng anh ta đã không để tâm đến hành động trêu chọc của Phương Mộc, vẫn mỉm cười nhìn cậu đầy cảm kích.
Nhìn thấy bộ dạng ăn uống ngấu nghiến của những người cảnh sát, Phương Mộc cũng cảm thấy hơi đói, chia đôi hộp cơm với Thái Vĩ. Cậu kinh ngạc phát hiện ra, không ngờ cơm hộp lại ngon như thế, mặc dù là đứng dựa vào bức tường lạnh lẽo, mặc dù là hứng chịu cơn gió lạnh, nhai nuốt cùng hạt cơm không thật mới, cậu vẫn cảm thấy đây là bữa cơm ngon nhất trong thời gian này.
Sau khi ăn xong, Thái Vĩ lại dẫn Phương Mộc đến các trạm giám sát một vòng. Lúc kết thúc đã gần 11g30’ đêm, trong trường đã không còn nhìn thấy bóng người, ánh đèn trong các khu ký túc xá lần lượt cũng đã tắt hết. Cả ngôi trường sau một ngày ồn ào huyên náo cũng đã trở lại trạng thái yên tĩnh, chỉ có cơn gió lạnh thổi càng lúc càng mạnh.
Phương Mộc và Thái Vĩ vội vàng bước đi trên đường không một bóng người, khi sắp đến chân khu ký túc xá, Thái Vĩ đột ngột dừng bước nhìn về phía sau.
“Sao vậy?” Phương Mộc nhìn theo hướng Thái Vĩ nhìn, ở gần đó chỉ có một chiếc đèn đường lờ nhờ cô độc, con đường phía dưới được chiếu sáng một mảnh, ngoài ra bị bao phủ bởi bóng đêm vô cùng tĩnh mịch.
“Không có gì!” Thái Vĩ nhíu mày nhìn lại quanh một vòng, “Có lẽ là tôi nghe nhầm.” Hai người, người đi trước, người đi sau bước vào khu ký túc xá, khi đi qua nhà vệ sinh ở tầng 1, Thái Vĩ đột nhiên ôm bụng nói: “Cậu lên trước đi, trong hộp cơm khi nãy có cá không được tươi, hình như tôi bị đau bụng.”
Phương Mộc gật đầu, “Chỗ tôi có Hoàng Liên Tố (thuốc trị tiêu chảy, đau bụng), lát nữa anh lên lấy nhé!”. Nói xong, bèn nhấc chân bước lên cầu thang.
Hành lang rất tĩnh mịch, thỉnh thoảng có thể thấp thoáng nghe thấy tiếng nước chảy từ xa vọng lại. Đi bộ suốt buổi tối, Phương Mộc cảm thấy đùi hơi mỏi, cậu chậm rãi bước từng bậc thang, lắng nghe bước chân của mình.
Đột nhiên, cậu nghe thấy tiếng bước chân không phải của mình.
Tiếng bước chân đó ở ngay gần mình, tiếng bước chân đó không nhanh không chậm, nghe có vẻ dường như hơi lơ đễnh. Phương Mộc dừng bước ở phần chiếu nghỉ ở tầng 2, nghiêng tai nghe ngóng. Bước chân đó cũng lập tức biến mất, dường như chưa từng xuất hiện.
Phương Mộc nín thở đứng im, lồng ngực thở phập phồng, mấy giây sau cậu lại di chuyển đôi chân, từ từ bước lên bậc cầu thang.
Quả nhiên, bước chân đó lại xuất hiện.
Phương Mộc vừa đi vừa nhìn xuống dưới, dọc theo tay vịn cầu thang. Ở giữa tầng 1 và tầng 2 có một bóng người kéo dài đang từ từ đi lên.
Phương Mộc cảm thấy lông mao toàn thân dần dần dựng đứng. Cậu không kịp nghĩ nhiều, nhón chân bước vội lên tầng 3. Khi bước đến phòng 312, cậu lưỡng lự một lát, không mở cửa phòng mà đi về hướng phía bên kia của hành lang. Ở cạnh phòng 320 có một bức tường nhô ra vừa vặn có thể nấp được một người. Khi đi qua phòng 318, có mấy mảnh kính vỡ bị dồn thành đống ở trước cửa, có lẽ kính trong phòng bị vỡ, vứt ra ngoài để công nhân vệ sinh thu dọn. Phương Mộc tiện tay nhặt một miếng khá to, bước nhanh đến cạnh bức tường. Để miếng kính dựa vào cạnh cửa phòng 321, để chiếu đụng vào phía bên kia hành lang, còn mình nấp ngay sau bức tường nhô ra, vừa để quan sát hành lang qua mảnh gương, vừa không cần thò đầu ra.
Mấy giây sau, trong gương xuất hiện một bóng người lờ mờ.
Anh ta bước chậm rãi, cao khoảng 1m75, rất gầy, một tay đút vào túi áo, một tay đang vung vẩy. Không biết tại sao Phương Mộc cảm thấy người này rất quen.
Người đó đi càng lúc càng gần, đột nhiên đứng lại, Phương Mộc đoán vị trí anh ta đứng chính là phòng 313.
Người đó đứng ở trước cửa vài giây, đột nhiên giơ tay sờ vào cánh cửa.
Anh ta đang làm gì? Tấm gương lờ mờ khiến Phương Mộc không thể không cố gắng mở to đôi mắt nhưng vẫn không nhìn rõ được. Nhân lúc anh ta đang sờ trên cánh cửa, Phương Mộc vội thò đầu ra xem.
Là Mạnh Phàm Triết.
Phương Mộc thở phào, bước ra khỏi bức tường.
“Này, là cậu à?”
Mạnh Phàm Triết quay người, ngẩn người nhìn cậu. Phương Mộc giật nảy mình, chỉ mấy ngày không gặp, Mạnh Phàm Triết đã lại tiều tụy đi rất nhiều. Khoang mắt thâm đen, hai má trũng xuống, mái tóc rối bời dựng đứng trên đầu, có lẽ đã rất lâu chưa gội.
Ánh mắt Phương Mộc nhìn vào bàn tay cậu ta vừa mới sờ trên cánh cửa, trong mấy ngón tay dài đang kẹp một chiếc bút.
Phương Mộc bèn nghĩ ngay đến ngôi sao năm cánh trên cửa.
“Cậu đang làm gì vậy?” Phương Mộc dừng bước, Mạnh Phàm Triết dường như không nghe thấy, hai mắt đờ đẫn nhìn Phương Mộc, Phương Mộc thận trọng bước lên một bước, “Mạnh Phàm Triết, cậu đang làm gì vậy?”.
Bỗng chốc Phương Mộc nhìn thấy đôi mắt u ám của Mạnh Phàm Triết đột nhiên trở nên điên dại hung ác, các cơ trên mặt đều co rúm cả lại, cậu ta há miệng lộ ra hàm răng trắng ởn. Đồng thời phát ra một thứ âm thanh chỉ loài dã thú mới có.
“A!!!”
Phương Mộc hoảng sợ lùi lại mấy bước, còn chưa kịp mở miệng đã thấy Mạnh Phàm Triết rút bàn tay vẫn đút ở trong túi áo ra, trong tay cầm một chiếc dao rọc giấy lớn. Đẩy mạnh ngón tay cái, một lưỡi dao sắc lạnh lộ ra khỏi cán dao rọc giấy. Cậu ta cầm dao, trong miệng lẩm bẩm gì đó nghe không rõ, bước từng bước đến gần Phương Mộc, rồi đột nhiên, vung tay một cái, dưới ánh đèn, con dao rọc giấy tạo nên một luồng ánh sáng chói mắt, lao thẳng tới Phương Mộc.
Phương Mộc nhảy lùi về phía sau, cảm giác như lưỡi dao vừa sượt qua đầu mũi mình, roạt một tiếng, chiếc áo khoác bị rách một vết dài.
“Cậu điên rồi à, Mạnh Phàm Triết!” Phương Mộc vừa lùi lại, vừa hét lớn, “Hãy nhìn kỹ đi, mình là Phương Mộc!”.
Lời nói của Phương Mộc không có chút tác dụng gì, Mạnh Phàm Triết phát đầu bị trượt, lại vung dao đến, lần này nhằm thẳng vào cổ Phương Mộc. Phương Mộc vội vàng khom lưng, cùng lúc tránh được lưỡi dao, nhảy phắt ra sau lưng Mạnh Phàm Triết, đá mạnh một cái vào đầu gối cậu ta.
Mạnh Phàm Triết quỳ sụp xuống đất. Phương Mộc định lao lên ấn chặt cậu ta, nhưng động tác của Mạnh Phàm Triết còn nhanh hơn, không chờ đứng dậy lại vung dao tới. Phương Mộc vội rụt người lại, nhưng chậm một bước, ngón tay bị lưỡi dao lướt qua, máu tươi lập tức trào ra.
Mạnh Phàm Triết đứng dậy, trong miệng khẽ gầm mấy tiếng “U…u…”, từng bước từng bước tiến lại gần Phương Mộc, ánh đèn trên trần soi thẳng xuống, Mạnh Phàm Triết đang cắn chặt hai hàm răng, bên mép toàn là bọt trắng, không khác gì một con dã thú đang nổi điên. Phương Mộc bóp chặt ngón tay đang chảy máu, vội bước lùi về phía sau, nhưng lại nghe thấy tiếng bước chân vội vã từ phía sau truyền tới.
Phương Mộc quay người, nhìn thấy Thái Vĩ đang chạy ra từ đầu phía bên kia hành lang tối om, vừa chạy vừa sờ tay vào thắt lưng.
Trong nháy mắt, Thái Vĩ đã chạy đến bên Phương Mộc, nét mặt anh vô cùng căng thẳng, kéo tay Phương Mộc ra phía sau mình. Đồng thời giơ súng trong tay lên, “Cậu không sao chứ?” không đợi Phương Mộc trả lời, Thái Vĩ đã hét lớn với Mạnh Phàm Triết: “Bỏ dao xuống, tôi là cảnh sát!”.
Mạnh Phàm Triết vẫn không mảy may xúc động, cậu ta dường như không hề nhìn thấy Thái Vĩ, nhìn chằm chằm vào Phương Mộc, bước từng bước lại gần.
Thái Vĩ lên nòng súng kêu “rắc” một tiếng, “Bỏ dao xuống, không tôi bắn!”.
Phương Mộc vội vã giữ Thái Vĩ lại, “Đừng bắn, cậu ấy là bạn học của tôi!”
Thái Vĩ nhìn gườm gườm vào Mạnh Phàm Triết, hạ búa đập vào vị trí cũ, nhét vào trong vỏ đựng súng, đồng thời dạng chân ra đứng tấn, nghiêm mặt chờ đợi.
Mấy cánh cửa phòng ký túc xá mở ra, mấy sinh viên nghe thấy tiếng động mặc áo may ô thò đầu nhìn ra ngoài, chứng kiến cái màn căng thẳng đến nghẹt thở này, kêu lên một tiếng kinh hãi rồi rụt đầu lại, ghé mắt qua khe cửa để quan sát hành lang.
Đỗ Ninh cũng ra, cậu ngẩn người mất mấy giây, không biết làm gì, bèn quay về lấy một cây gậy lau sàn chạy ra, sau khi sợ hãi đứng cạnh Phương Mộc, bèn run rẩy nói: “Mạnh Phàm Triết, cậu đừng làm bừa!”.
Mạnh Phàm Triết lúc này phát ra một tiếng gầm nho nhỏ, giơ cao dao lao đến. Thái Vĩ nhảy phắt lên trước, nhằm chuẩn, nắm chặt bàn tay cầm con dao của Mạnh Phàm Triết, cổ tay bị lật lên vốn tưởng Mạnh Phàm Triết đau đớn mà bỏ dao xuống, không ngờ Mạnh Phàm Triết không buông tay mà phải thêm một cú đòn vào đầu gối, con dao rọc giấy mới rơi xuống đất. Thái Vĩ thò tay ra phía sau túm chặt cổ áo Mạnh Phàm Triết, hất mạnh về phía trước, Mạnh Phàm Triết đập vào tường rồi ngã vật xuống đất, đau đớn đến nỗi co rúm lại.
Thái Vĩ bước nhanh đến, lật Mạnh Phàm Triết lại, lấy đầu gối giữ chặt phần lưng cậu ta, đồng thời lấy còng tay, còng hai tay Mạnh Phàm Triết ra phía sau lưng. Thái Vĩ lấy máy di dộng ra, sau khi kết nối nói một câu đơn giản: “Phòng 313, khu KTX 5 Nam Phạm, mau đến đây!”.
Sau khi gác máy, anh quay sang hỏi Phương Mộc: “Chuyện gì vậy, đây là ai, tại sao cậu ta lại muốn giết cậu?”.
Phương Mộc không hề có phản ứng trước những câu hỏi của Thái Vĩ, cậu chỉ ngẩn người nhìn Mạnh Phàm Triết đang thở dốc và rên rỉ ở dưới đất, trong đầu chỉ hiện lên hai chữ: Tại sao?
Trong hành lang đã trở nên vô cùng ồn ào, nhốn nháo, hầu như tất cả sinh viên đều chạy đến xem, có mấy người kêu lên kinh ngạc: “Đây chẳng phải là Mạnh Phàm Triết sao, sao vậy?”
Đột nhiên, Phương Mộc lao đến, quỳ xuống trước mặt Mạnh Phàm Triết, hét lớn: “Cậu nghe thấy mình nói không? Rốt cục cậu sao vậy?”.
Mạnh Phàm Triết nhắm mắt, chỉ thở dốc, không có chút phản ứng nào.
Phương Mộc thả bàn tay vẫn ấn chặt từ nãy đến giờ, lắc mạnh bả vai Mạnh Phàm Triết, “Cậu nói đi chứ, Mạnh Phàm Triết, rốt cục là có chuyện gì? Vì sao lại muốn giết mình?”
Đôi mắt Mạnh Phàm Triết bỗng chốc mở trừng trừng, ánh mắt hoảng loạn hung dữ một lần nữa lại xuất hiện trong mắt cậu ta, cậu ta ra sức ngẩng đầu lao đến cắn Phương Mộc.
Phương Mộc ngã ngồi về phía sau, Thái Vĩ đi lên trước đạp vào mặt Mạnh Phàm Triết một cái, “Mày cẩn thận một chút!”.
Phương Mộc không kịp đứng dậy, lấy tay ôm chặt chân Thái Vĩ, “Đừng đánh cậu ấy, chuyện này chắc chắn có vấn đề, bình thường cậu ấy không như thế này đâu..”.
Miệng Mạnh Phàm Triết bị đá rách toạc, máu tươi chảy ra lẫn cả với cát bụi trên mặt, trông vô cùng nhớp nháp. Vết thương Phương Mộc vừa mới ấn chặt cũng nứt toác, máu chảy theo ngón tay rơi xuống đất, nhanh chóng tạo thành một vũng nhỏ. Đỗ Ninh thấy tay Phương Mộc đang chảy máu, vội vàng kéo cậu, “Mau về phòng, mình lấy băng y tế băng vết thương cho cậu.”
Đầu óc Phương Mộc hoàn toàn trống rỗng, mặc cho Đỗ Ninh kéo cậu về phòng 313, khi đi đến cửa, đột nhiên Phương Mộc nghĩ đến vừa rồi Mạnh Phàm Triết vẽ gì đó trên cửa, vội vàng vùng khỏi tay Đỗ Ninh, tìm kiếm thật kỹ trên cửa.
Trên cửa trắng tinh không có gì cả, Phương Mộc sau khi lướt qua một lượt, bắt đầu quan sát tỉ mỉ. Đột nhiên, ánh mặt cậu dừng lại tấm biển trên cửa.
Trên tấm biển, “3, “1″, “3″ giữa ba số này, bị một chiếc bút mực đen viết thêm hai dấu “+”, 3+1+3 … Phương Mộc lẩm bẩm, cảm giác bỗng chốc toàn thân lạnh toát.
Thái Vĩ thấy Phương Mộc đứng bất động ở cửa, chỉ vào Mạnh Phàm Triết vẫn đang ngọ nguậy, nói với hai sinh viên “Giúp tôi trông cậu ta”, bèn bước đến hỏi Phương Mộc: “Sao thế?”.
Phương Mộc không trả lời, mắt mở trừng trừng, ngẩn người nhìn biển số phòng. Thái Vĩ nhìn theo ánh mắt cậu, một lúc sau, Phương Mộc nghe thấy hơi thở gấp gáp của Thái Vĩ. Cậu quay đầu ra nhìn Thái Vĩ, thấy anh đang nhìn chằm chằm vào biển số phòng, Thái Vĩ không nén nổi sự hưng phấn. Đúng lúc đó, những người cảnh sát cũng vừa đến, có người cảnh sát lớn tiếng hỏi Thái Vĩ: “Đội trưởng, tình hình thế nào? Thẩm vấn ở đây hay đưa về Sở?”.
Thái Vĩ vẫy tay, “Tất cả lại đây, lại cả đây!”.
Những người cảnh sát chạy đến, Thái Vĩ bèn chỉ vào biển số phòng, giọng nói thoáng run rẩy: “Các anh em, bắt được rồi. Chính là cậu ta!”.
Những người cảnh sát đều hướng ánh mắt về tấm biển số phòng, sau vài giây yên lặng đột nhiên bùng lên những tiếng reo hò. Những người cảnh sát nhảy tưng tưng, cố ý xô đẩy nhau, một nữ cảnh sát tiến đến ôm chặt Thái Vĩ.
Phương Mộc bị kẹp giữa những người cảnh sát đang vui mừng hớn hở này, bị họ xô đẩy lắc la lắc lư. Nhưng trên mặt cậu không có lấy một nụ cười, chỉ ngẩn người nhìn biển số phòng, trong óc vẫn hiện lên hai chữ đó: Tại sao?
“Được rồi, được rồi!” Thái Vĩ phất tay ra hiệu mọi người yên lặng, trầm giọng nói: “Tất cả mọi người bắt đầu làm việc!”.
Những người cảnh sát thưa vâng một tiếng vang dội, ai vào việc nấy. Gọi thêm chi viện, phong tỏa hiện trường, đối chiếu thân phận nghi phạm… Đám người trong hành lang bị bắt phải giải tán, chỉ còn Mạnh Phàm Triết vẫn nằm dưới đất và Phương Mộc đang còn ngẩn người trước cửa phòng.
Hai người cảnh sát nhấc Mạnh Phàm Triết dậy, mỗi người giữ chặt một cánh tay kéo xuống dưới lầu, Phương Mộc chạy đuổi theo liền bị Thái Vĩ chặn lại.
“Cậu hãy đến bệnh viện trước đi, vết thương của cậu hình như khá sâu đấy!”.
“Không cần!” Phương Mộc khẩn thiết nói: “Tôi phải nói chuyện với cậu ấy, tôi cảm giác có chuyện gì đó không ổn.”
Thái Vĩ hình như không được vui, “Có gì không ổn chứ, chúng tôi quay về thẩm tra là rõ ngay thôi. Tiểu Trương”, anh gọi một người cảnh sát, “Đưa Phương Mộc đến bệnh viện.”
Người cảnh sát được ra lệnh đưa Phương Mộc đến bệnh viện ra hiệu cho Phương Mộc lên một chiếc xe bên cạnh. Lúc đi qua, Phương Mộc cứ nhìn Mạnh Phàm Triết mãi, dường như hy vọng có thể tìm ra đáp án trên khuôn mặt bạn.
Và đúng lúc đó, Mạnh Phàm Triết nhìn thấy Phương Mộc. Cậu liền lao đến cửa sổ, sự hung dữ điên cuồng trong mắt đã không còn thấy nữa, mà thay vào đó là nỗi sợ hãi và sự tuyệt vọng tột cùng. Cậu ta ra sức gõ mạnh vào cửa sổ xe, miệng kêu gào không thành tiếng, nước mắt lăn dài.
Hai người cảnh sát bên cạnh ra sức ấn người cậu xuống, thụi mạnh vào cơ thể cậu. Phương Mộc chạy đến muốn kéo cửa xe ra, nhưng trong khoảnh khắc cậu chuẩn bị bước lên song bảo hiểm phía sau, chiếc xe cảnh sát đó đột ngột khởi động, Phương Mộc ngã nhào xuống đất, đợi khi cậu đứng dậy được, chiếc xe đó quặt rẽ, chỉ còn lại tiếng còi cảnh sát chói tai vẫn vang vọng khắp trường.