468x1000 Ads

Truyện

BA CHÀNG LÍNH NGỰ LÂM CHƯƠNG 42 Rượu vang Ăngju

Ba chàng lính ngự lâm
Tác giả: Alexandre Dumas
Dịch giả: Nguyễn Bản
Chương 42 Rượu vang Ăngju

Sau những tin gần như thất vọng về nhà Vua, tin đồn Ngài đã bình phục lại bắt đầu lan ra khắp chiến tuyến, và vì nhà Vua rất vội thân chinh tới vòng vây, người ta còn nói, cưỡi nổi ngựa là nhà vua lên đường ngay.

Trong khi đó, Hoàng đệ biết rằng sớm muộn gì ngài cũng bị mất chức tổng chỉ huy hoặc bởi Quận công Ănggulêm, hoặc ông Bassompirre hay Xkombéc đang tranh giành nhau chức ấy, nên Ngài không làm gì mấy, thường cứ mất hàng ngày trời vào những việc thăm dò, và không dám mở một trận đánh lớn để đuổi quân Anh khỏi đảo Rê, nơi chúng đang bao vây thành Saint-Martin và pháo đài Laprê, trong khi về phía mình, quân Pháp vây thành Rochelle.

BA CHÀNG LÍNH NGỰ LÂM CHƯƠNG 41 Cuộc vây thành La Rochelle

Ba chàng lính ngự lâm
Tác giả: Alexandre Dumas
Dịch giả: Nguyễn Bản
Chương 41 Cuộc vây thành La Rochelle

Cuộc vây thành La Rochelle là một trong những sự kiện chính trị trọng đại dưới triều Vua Louis XIII, và là một trong những sự nghiệp quân sự lớn của Giáo chủ. Vì vậy sẽ thú vị và cần thiết nữa để nói đôi điều về việc đó. Vả lại nhiều tình tiết của cuộc vây hãm này liên hệ rất quan trọng đến câu chuyện này không thể bỏ qua.

Những quan điểm chính trị của Giáo chủ, khi ông quyết định cuộc vây hãm này rất quan trọng. Trước hết hãy trình nó ra, rồi sẽ chuyển sang những quan điểm riêng biệt có lẽ không kém ảnh hưởng đến Giáo chủ hơn những quan điểm trước của chính ông.

Những thành phố quan trọng mà Henri IV dành cho những người theo đạo Canvanh như những vị trí an toàn nay chỉ còn lại mỗi thành Rochelle, vị trí cuối cùng của giáo phái Canvanh này, cái mầm mống nguy hiểm không ngừng dính líu với những việc kích động nội loạn hay chiến tranh với nước ngoài.

Người Tây Ban Nha, người Anh, người Ý đều bất bình, khách lục lâm giang hồ, những binh lính gặp may của đủ mọi loại quân nghe thấy lời kêu gọi đầu tiên, đã đổ đến dưới cá cờ của bọn Tin lành, và tổ chức thành một hiệp hội rộng lớn mà các chi hội thoải mái phân nhánh trên khắp các điểm của châu Âu.

La Rochelle giữ một tầm quan trọng mới từ sự sụp đổ của những thành phố Canvanh khác, đã trở thành cái lò của những mối bất hòa và những tham vọng. Còn thêm nữa, hải cảng của nó là chiếc cửa cuối cùng mở ra cho bọn Anh vào vương quốc Pháp và nếu đóng nó lại với bọn Anh, kẻ thù vĩnh viễn của chúng ta, thì Giáo chủ sẽ hoàn tất được sự nghiệp của Janđa (1) và Công tước de Ghidơ, vậy nên, Bassompirre(2) vừa là Tin lành vừa Cơ đốc giáo, Tin lành trong tín ngưỡng và Cơ đốc giáo vì được ban tặng huân chương Thánh Trí tuệ(3). Bát xompie là người giữ vai trò chỉ huy đặc biệt cuộc bao vây thành La Rochelle, lại đi nhồi vào đầu nhiều lãnh chúa Tin lành khác như mình câu nói sau:

- Rồi các vị sẽ thấy là chúng ta khá ngu ngốc khi đánh chiếm thành La Rochelle!

Và Bassompirre đã đúng: Trận đại bác nã vào đảo Rê đã là khúc dạo đầu cho những vụ thảm sát ở Xêven(4) và việc đánh chiếm La Rochelle là phần lời tựa cho sắc lệnh Nante.

Nhưng như đã nói, bên cạnh những quan điểm của vị Thủ trướng muốn san bằng giai cấp, và đơn giản hóa bộ máy Nhà nước, thuộc về lịch sử, còn phải nhặn ra những mục tiêu nho nhỏ của một người đàn ông si tình và một tình địch cả ghen.

Richelieu đã từng si mê Hoàng hậu. Mối tình ấy ở ông là một mục đích chính trị hay chỉ hoàn toàn tự nhiên là một trong những mê đắm sâu sác mà Anne d' Autriche đem lại cho mọi người xung quanh? Đó là điều chúng ta không thể nói sao cho đúng.

Nhưng dẫu sao, qua những sự phát triển trước đây của chuyện này, người ta cũng thấy Buckingham đã nẫng tay trên mất của Richelieu trong vài ba trường hợp và đặc biệt trong chuyện những nút kim cương, nhờ sự tận tâm của ba chàng ngự lâm và lòng can đảm của D' Artagnan, đã chơi ông một vố tàn bạo.

Vì vậy đối với Richelieu, đây không những là tống cổ kẻ thù ra khỏi nước Pháp mà còn là trả hận một địch tình. Hơn nữa việc rửa hận phải lớn lao, rạng rỡ và hoàn toàn xứng đáng với một người nắm trong tay toàn bộ lực lượng vũ trang của vương quốc như thanh gươm chiến của mình.

Richelieu biết rằng trong khi chiến đấu với Anh quốc tức chiến đấu với Buckingham, thắng Anh quốc ông thắng luôn Buckingham, cuối cùng làm nhục nước Anh trước con mắt châu Âu cũng là làm nhục Buckingham trước mặt Hoàng hậu.

Về phía Buckingham, trong khi đặt danh dự nước Anh lên trước hết, cũng bị lay chuyển bởi những lợi ích tương đồng với những lợi ích riêng của Giáo chủ. Buckingham cũng theo đuổi một cuộc trả thù đặc biệt, Buckingham không thể viện được bất cứ cớ nào để có thể vào nước Pháp như một sứ thần, ông ta định vào đó như một kẻ chiến thắng.

Kết luận là khoản được thua đích thực trong canh bạc mà hai vương quốc hùng mạnh nhất chơi với nhau theo trò hứng trí của hai kẻ si tình chỉ đơn giản là cái liếc nhìn của Anne d' Autriche.

Lợi thế ban đầu thuộc về Công tước De Buckingham.

Bất ngờ có mặt ở đảo Rê với chín mươi chiến hạm và khoảng hai mươi nghìn quân, ông ta đột kích Bá tước de Toiras, người thay mặt nhà Vua trấn giữ đảo. Sau một trận giao chiến đẫm máu, Buckingham đã đổ bộ được lên đảo. Và Nam tước de Săngtan đã tử trận ở đây, để lại cô con gái mồ côi mười tám tháng tuổi, chính là nữ nhà văn De Xêvinhê sau này.

Bá tước De Toiras rút lui vào thành Saint-Martin, cùng với quân đồn trú và tung một trăm quân vào một pháo đài nhỏ mà người ta gọi là pháo đài De La Prê.

Biến cố đó đẩy nhanh những quyết định của Giáo chủ. Trong khi chờ đợi nhà Vua, và đích thân mình chỉ huy cuộc bao vây thành La Rochelle, Giáo chủ đã phái Hoàng đệ chỉ huy những trận đánh đầu tiên, và đưa tất cả các đạo quân có thể bố trí lên sân khấu chiến tranh.

D' Artagnan có mặt trong đạo quân tiên phong đó.

Nhà Vua, như đã nói, đáng lẽ đã đi theo, ngay khi họp xong Nghị viện, nhưng vừa đứng lên sau khi họp xong, ngày 23 tháng sáu, ông bị lên cơn sốt, không phải không muốn ra đi, nhưng thể trạng xấu thêm, buộc phải dừng lại ở Vilơroa.

Mà, nhà Vua dừng ở đâu, thì ngự lâm quân dừng ở đó, kết quả là D' Artagnan vốn chỉ đơn thuần là quân cận vệ ít ra đã tạm thời bị tách rời khỏi các bạn tốt của mình là Athos, Porthos và Aramis. Cuộc xa cách này chỉ là một sự bực dọc đối với chàng, chắc chắn đã trở thành một mối lo nghiêm trọng nếu như chàng đoán được những hiểm nguy chưa biết đang vây bọc quanh chàng.

Chàng vẫn đến được doanh trại thiết lập trước thành La Rochelle mà không gặp tai họa nào vào ngày 10 tháng 9 năm 1627.

Mọi việc vẫn trong tình trạng cũ. Quận công De Buckingham và quân Anh, làm chủ đảo Rê, tiếp tục bao vây không có kết quả thành Saint-Martin và pháo đài La Prê, và những trận giao chiến với La Rochelle đã bắt đầu từ vài ba hôm, nhân một pháo đài Quận công vừa cho xây dựng gần thành phố.

Quân cận vệ, dưới quyền chỉ huy của ông des Essarts đóng ở Minim. Nhưng D' Artagnan vẫn băn khoăn với tham vọng được chuyển sang Ngự lâm quân, ít thân mật với đồng đội, chàng thấy mình cô đơn, và đắm mình trong những suy nghĩ riêng tư.

Những suy nghĩ ấy không lấy gì làm vui vẻ lắm. Chàng đến Paris đã được hai năm. Chàng đã hòa mình vào những việc công. Những việc riêng tư như tình yêu và hạnh vận đều không được suôn sẻ lắm.

Về tình yêu, người đàn bà duy nhất chàng yêu là bà Bonacieux thì đã biến mất không để cho chàng khám phá ra được nàng đã ra sao.

Về hạnh vận, nhỏ nhoi như chàng mà lại biến mình thành kẻ thù của Giáo chủ, nghĩa là một con người mà đứng trước ông ta những bậc quyền quý nhất vương quốc bắt đầu từ nhà Vua, cũng phải run sợ.

Con người đó có thể nghiền nát chàng, tuy nhiên, ông ta lại không làm thế. Đối với một trí tuệ minh mẫn như D' Artagnan, sự độ lượng đó như một ánh sáng qua đó chàng nhìn vào một tương lai tốt đẹp hơn.

Thế rồi, chàng lại biến mình thành kẻ thù của một kẻ khác ít đáng sợ hơn, chàng nghĩ vậy, tuy nhiên linh tính báo cho chàng biết không thể coi thường, đó là Milady.

Đổi lại tất cả những điều đó chàng có được sự che chở và sự ưu ái của Hoàng hậu, nhưng sự ưu ái của Hoàng hậu chả mấy chốc lại là cái cớ để thêm nhiều ngược đãi, và sự che chở của bà lại rất tồi, bằng chứng là Cale(5) và bà Bonacieux.

Cái mà chàng kiếm được rõ rệt nhất trong mọi chuyện đó lại là cái nhẫn kim cương đáng giá năm sáu nghìn quan chàng vẫn đeo trên tay. Và còn nữa, cái nhẫn kim cương ấy, giả dụ D' Artagnan trong những dự định đầy tham vọng của mình, giữ nó để một ngày nào đó minh chứng cho lòng biết ơn Hoàng hậu thì trong khi chờ đợi, vì không thể đem bán nó đi được, nên nó cũng chỉ có giá trị như viên sỏi lăn dưới chân chàng.

Nói tới viên sỏi lăn dưới chân chàng, bởi D' Artagnan đang một mình dạo chơi trên con đường nhỏ đẹp từ doanh trại đến làng Ănggúttanh, vừa đi vừa suy nghĩ. Suy nghĩ miên man khiến đi quá xa mà cũng không biết, trời bắt đầu tà, trong tia nắng cuối cùng của mặt trời xế bóng, chàng như trông thấy lóe lên đằng sau một bờ giậu một họng súng hỏa mai.

D' Artagnan mắt tinh và nhanh trí, hiểu ngay khẩu súng hỏa mai không đến đó một mình và kẻ đang mang nó không phải nấp sau bờ giậu với ý đồ thân thiện. Chàng quyết định lánh xa ra, thì bên kia đường, sau một tảng đá, chàng thấy đầu một nòng súng hỏa mai thứ hai.

Rõ ràng là một cuộc phục kích.

Chàng đưa mắt nhìn khẩu súng thứ nhất, có phần lo ngại khi thấy nó đang hạ xuống hướng về phía mình, nhưng ngay khi thấy họng súng bất động, chàng vội nằm sấp xuống đất. Vừa kịp lúc súng nổ và chàng nghe thấy tiếng đạn réo qua đầu.

Không để mất một phút, D' Artagnan vùng ngay dậy và ngay lúc đó viên đạn của khẩu hỏa mai kia làm bay những viên sỏi đúng nơi chàng vừa nằm xuống đất.

D' Artagnan không phải là một kẻ can trường vô ích đi tìm cái chết lố lăng để được người ta nói là hạng người không chịu lùi một bước. Vả lại không phải chuyện can đảm ở đây.

D' Artagnan đã rơi vào một âm mưu sát hại. Chàng tự nhủ, nếu có phát thứ ba, mình chết rồi!

Thế là ngay lập tức chàng vắt chân lên cổ chạy trốn về phía doanh trại, với tốc độ nổi tiếng của dân xứ chàng. Nhưng dù có chạy nhanh đến đâu, thì tên bắn trước đã kịp nhồi lại thuốc súng và bắn chàng phát thứ hai khá trúng. Viên đạn xuyên qua mũ chàng và làm bay mũ xa đến mươi bước.

Thế nhưng D' Artagnan không còn chiếc mũ nào khác, nên chàng phải vừa chạy vừa nhặt lấy mũ, vừa chạy vừa thở, mặt tái nhợt đi, về đến nơi trú quân, rồi ngồi xuống lẳng lặng bắt đầu suy nghĩ.

Sự cố đó có thể có ba nguyên nhân.

Nguyên nhân đầu tiên và cũng là tự nhiên nhất, có thể đây là một ổ phục kích của bọn Rochelle, chắc chẳng thấy phiền lòng khi giết một cận vệ của nhà Vua, trước hết bởi ít nhất đấy cũng là một kẻ thù, và kẻ thù biết đâu lại không có một bọc vàng trong túi.

D' Artagnan cầm mũ, xem lỗ thủng viên đạn và lắc đầu.

- Không phải đạn súng hỏa mai, đó là viên đạn của loại súng có bệ tì, sự chính xác của viên đạn khiến chàng nghĩ nó phải được bắn ra từ một vũ khí đặc biệt, đây không phải một ổ phục kích quân sự một khi viên đạn không thuộc cỡ súng quân dụng.

Đó cũng có thể là một kỷ niệm quý hóa của Giáo chủ. Chàng nhớ lại lúc đó, nhờ có một tia sáng mặt trời may mắn, chàng mới nhìn thấy cái nòng súng và lấy làm ngạc nhiên về tính kiềm chế của Đức ông trong chuyện này.

Nhưng rồi D' Artagnan lại lắc đầu. Đối với những kẻ mà Đức ông chỉ cần giơ tay ra, ông hiếm khi phải dùng đến những thủ đoạn đó.

Có thể đó là sự trả thù của Milady. Có thể có khả năng này hơn.

Chàng tìm cách nhớ lại những nét dạng hay trang phục những tên sát thủ nhưng vô ích. Chàng chạy quá nhanh để thoát khỏi chúng, còn thì giờ đâu để chú ý đến điều gì.

- Ôi các bạn chia sẻ đắng cay của tôi ơi - D' Artagnan lẩm bẩm - các bạn ở đâu? Sao tôi nhớ các bạn đến thế!

D' Artagnan trải qua một đêm thật là tồi tệ. Ba bốn lần chàng giật mình tỉnh dậy, như thấy có người lại gần giường cầm dao đâm mình. Tuy nhiên cho đến rạng sáng bóng đêm không đem đến sự cố gì.

Nhưng D' Artagnan ngờ rằng cái công việc bị trì hoãn này không phải đã mất đi.

Suốt ngày chàng không ra khỏi nơi trú quân, tự bào chữa cho mình vì trời xấu.

Ngày hôm sau nữa, khoảng chín giờ, hai bên đánh nhau.

Quận công De Oóclêăng đi thị sát các vị trí chiến đấu, quân cận vệ vơ lấy vũ khí tập hợp lại, D' Artagnan xếp hàng giữa các đồng ông Hoàng thị sát mặt trận. Các sĩ quan cao cấp, ông des Essarts, đại úy cận vệ, cũng như những người khác đến bên ông Hoàng để chúc tụng.

Một lát sau hình như ông des Essarts ra hiệu cho D' Artagnan lại gần mình, chàng sợ mình hiểu nhầm, đang đợi ông ra hiệu lần nữa, quả nhiên ông ra hiệu lần nữa, chàng liền chạy ra khỏi hàng ngũ, tiến lên để nhận lệnh.

- Đức ông yêu cầu một số người tình nguyện làm một nhiệm vụ nguy hiểm, và sẽ thưởng huân chương cho người nào hoàn thành nhiệm vụ. Và ta đã ra hiệu cho ông hãy sẵn sàng.

- Xin cám ơn, ông đại uý! - D' Artagnan trả lời, không đòi hỏi gì hơn là được tỏ ra nổi trội trước mặt ông trung tướng.

Quả thật, bọn Rochelle đã ra khỏi thành ban đêm và đã chiếm lại được một pháo lũy mà quân đội bảo hoàng đã chiếm trước đây hai ngày. Vấn đề là cần phải tung một nhóm trinh sát quyết tử để xem quân đối phương phòng thủ pháo lũy đó ra sao.

Một lát sau Đức ông cất cao giọng nói:

- Để làm nhiệm vụ này, ta cần ba bốn người tình nguyện do một người chín chắn điều khiển.

- Thưa Đức ông, về con người chín chắn, tôi đã có sẵn trong tay - Ông des Essarts vừa nói vừa chỉ D' Artagnan, còn về bốn năm người tình nguyện, Đức ông chỉ việc cho biết ý đồ của ngài, người sẽ không thiếu đâu.

D' Artagnan vung gươm nói:

- Bốn người quyết tâm cao sẵn sàng chết cùng tôi!

Hai trong số bạn cận vệ đồng ngũ lao ra ngay và hai người lính khác cũng ra theo họ, quân số yêu cầu đã đủ, D' Artagnan từ chối mọi người khác dành ưu tiên cho mấy người trước.

Không biết liệu sau khi chiếm lại được pháo lũy, bọn Rochelle đã sơ tán hết hay để quân lại đồn trú, vậy nên phải đến rất gần địa điểm đã định để quan sát mới xác định được thực hư thế nào.

D' Artagnan ra đi cùng bốn đồng đội, theo một đường hào, hai cận vệ đi ngang hàng với chàng và hai người lính đi phía sau.

Được che lấp bằng những lớp tường bao, họ cứ như thế tiến bước đến chỗ cách pháp lũy một trăm bước, tới đây, D' Artagnan ngoảnh lại, thấy hai người lính biến mất. Chàng tưởng họ sợ đã tụt lại phía sau, nên tiếp tục tiến bước.

Tới chỗ ngoặt của bức tường bao ngoài, họ chỉ còn cách pháo lũy khoảng sáu mươi bước. Họ chẳng nhìn thấy ai và pháo lũy như thể bị bỏ hoang.

Ba người ngơ ngác bàn nhau có nên tiến nữa hay không, bất thình lình một vành khói bao quanh pháo lũy bằng đá khổng lồ, và một tá đạn véo véo xung quanh D' Artagnan và hai đồng ngũ của chàng.

Thế là họ đã biết được điều họ muốn biết: pháo thành vẫn được canh giữ. Trụ lâu tại vị trí nguy hiểm này là một sự bất cẩn không cần thiết, D' Artagnan và hai cận vệ quân quay lại, bắt đầu rút lui giống như một sự chạy trốn.

Đi đến góc hào có tác dụng với họ như một chiến lũy, một cận vệ quân ngã xuống, một viên đạn xuyên qua ngực. Người kia không việc gì tiếp tục chạy về trận tuyến của mình.

D' Artagnan không muốn bỏ rơi đồng ngũ của mình liền cúi xuống nâng anh ta dậy và dìu trở về chiến tuyến của mình.

Nhưng cùng lúc đó hai phát súng bắn ra, một viên đạn bắn vỡ đầu người lính cận vệ đã bị thương, và viên khác bay đến bẹt ra trên một tảng đá, sau khi sượt qua D' Artagnan hai đốt ngón tay.

Chàng quay phắt lại, bởi cuộc tấn công này không từ pháo lũy mà từ chỗ này ngay góc chiến hào. Nghĩ tới hai tên lính đã bỏ rơi chàng, chàng liền nhớ lại hai tên sát thủ hôm trước nữa.

Thế là chàng quyết định lần này phải tìm cho ra nguyên cớ, và ngã lên thi thể người bạn làm như mình đã chết.

Chàng thấy ngay hai cái đầu ngóc lên trên một công sự bỏ hoang cách đó ba mươi bước chân, đó chính là đầu hai người lính đã đi theo chàng.

D' Artagnan đã không nhầm, hai tên đó đi theo chỉ để ám sát chàng, hy vọng sẽ đổ được cái chết của chàng trai trẻ cho kẻ thù.

- Có điều sợ rằng chàng có thể chỉ bị thương và sẽ tố cáo tội ác của chúng, chúng phải đến gần để kết liễu đời chàng. May sao, bị lừa bởi mưu kế của D' Artagnan, bọn chúng không nạp lại thuốc súng.

Khi chúng đến cách chàng mười bước, D' Artagnan khi vờ ngã vẫn cẩn thận không rời khỏi tay gươm, bất thình lình đứng vụt dậy và nhẩy phắt đến bên chúng.

Những tên sát thủ hiểu rằng nếu chúng chạy trốn về phía phòng tuyến quân Pháp mà chưa giết chết được người định giết, thì sẽ bị tố cáo. Cho nên ý nghĩ đầu tiên đến với chúng là nhảy sang hàng ngũ kẻ thù. Một trong hai tên cầm nòng súng quay ngược lại dùng làm cây chùy và phang một đòn khủng khiếp vào D' Artagnan, chàng nhảy sang một bên và tránh thoát, nhưng do vậy, chàng đã để lối thoát cho tên cướp lao ngay về phía pháo lũy.

Vì bọn Rochelle canh giữ không biết rõ ý đồ của kẻ chạy đến với chúng, chúng nhả đạn về phía tên này. Y ngã xuống vì bị trúng một phát đạn vỡ vai.

Trong khi đó, D' Artagnan đã nhảy vào tên thứ hai, dùng gươm tấn công hắn, trận đấu không kéo dài, tên kia chỉ chống đỡ bằng khẩu súng có bệ tì chưa nạp thuốc, mũi gươm của chàng cận vệ lướt qua nòng súng đã trở nên bất lực và xuyên qua đùi tên sát thủ. Hắn ngã xuống. D' Artagnan dí ngay mũi gươm và họng hắn.

- Ôi! Đừng giết tôi! - Tên cướp kêu lên - xin tha chết, xin tha chết, ngài sĩ quan? Tôi sẽ nói ra hết với ngài.

Chàng dừng tay lại hỏi:

- Bí mật của mày có bõ công tao tha chết cho mày không?

- Có, có, nếu ông coi cuộc sống còn đáng chút gì đó khi người ta mới hăm hai tuổi như ông và đẹp trai, can trường như ông, và có thể đạt tới mọi điều tốt đẹp.

- Đồ khốn! - D' Artagnan nói - Có nói mau lên không nào, ai sai mày ám sát tao?

- Một người đàn bà tôi không quen biết, nhưng người ta gọi là Milady.

- Nhưng nếu mày không biết mụ ấy, làm sao mày lại biết tên?

- Bạn tôi biết bà ta và gọi tên như vậy, và bà ta làm việc với hắn chứ không phải với tôi. Hắn còn có trong túi hắn một bức thư của bà ta, chắc phải rất quan trọng đối với ông theo như tôi được nghe hắn nói.

- Nhưng làm sao mày lại dự phần một nửa trong cuộc mai phục đó?

- Hắn đề nghị tôi hai người cùng làm và tôi đã nhận lời.

- Và mụ ta đã trả cho chúng mày bao nhiêu cho cuộc mạo hiểu đẹp đẽ này?

- Một trăm louis.

- Thế à, trả hậu đấy! - Chàng vừa nói vừa cười - Mụ cho là tao cũng đáng giá đấy chứ, những một trăm louis cơ mà - Một số tiền lớn cho hai tên khốn kiếp chúng mày, vì vậy tao hiểu tại sao chúng mày nhận, và tao tha chết cho mày với một điều kiện?

- Điều kiện gì? - Tên cướp hỏi và lo lắng vì thấy mọi chuyện chưa xong.

- Mày phải đi lấy bức thư trong túi bạn mày cho tao.

- Nhưng - Tên cướp kêu lên - Đó là cách khác để giết tôi. Làm sao tôi có thể đi tìm bức thư ấy dưới hỏa lực của pháo luỹ?

- Tuy nhiên mày vẫn phải đi tìm, nếu không tao thề sẽ tự tay tao giết chết mày.

Tên cướp quỳ sụp xuống và chống tay lên vì bắt đầu yếu sức do mất máu và kêu lên:

- Xin tha tội chết! Thưa ngài, xin rủ lòng thương! Hãy vì người đàn bà trẻ mà ngài yêu và vẫn tưởng có lẽ đã chết, nhưng không phải thế!

- Và do đâu mày biết có một người đàn bà trẻ tao yêu và tao tưởng người ấy đã chết? - D' Artagnan hỏi.

- Do bức thư trong túi bạn tôi.

- Thế thì mày càng thấy tao cần bức thư thế nào - D' Artagnan nói - như vậy đừng chậm trễ thêm nữa, đừng ngần ngừ thêm nữa, nếu không cho dù tao có ghê tởm đến đâu phải nhúng mũi gươm của tao lần thứ hai vào máu một tên khốn kiếp như mày, tao xin thề trước lòng tin của một người lương thiện…

Nói đến đấy, D' Artagnan làm một động tác hăm dọa khủng khiếp khiến kẻ bị thương vội đứng dậy, nỗi khiếp hãi khiến y lấy lại được can đảm, cuống cuồng kêu lên:

- Xin dừng lại! xin dừng lại! Tôi sẽ đi… Tôi sẽ đi!…

D' Artagnan cầm lấy súng của tên lính, bắt nó đi trước, tỳ mũi gươm vào mạng mỡ đẩy nó đến chỗ bạn nó.

- Thật là một điều ghê rợn khi nhìn tên khốn kiếp để lại trên đường nó đi qua một vệt máu dài, mặt tái nhợt vì cầm bằng cái chết, cố lê đi để không bị phát hiện tới chỗ xác tên đồng mưu nằm chết cách đó hai mươi bước! Nỗi khiếp hãi in lên trên khuôn mặt lạnh toát mồ hôi, khiến D' Artagnan động lòng thương, chàng nhìn y một cách khinh bỉ và bảo y:

- Nghe đây, ta sẽ tỏ ra cho mày thấy sự khác nhau giữa một con người dũng cảm và một kẻ hèn nhát như mày. Mày cứ ở lại, tao đi tiếp.

Và với bước chân nhanh nhẹn, mắt theo dõi, quan sát những động thái của quân thù, lợi dụng những địa hình lồi lõm, chàng đến được chỗ tên lính thứ hai.

- Có hai cách đạt được mục đích của mình: lục soát ngay tại chỗ hoặc lôi hắn đi dùng hắn như một cái khiên che thân chàng rồi lục soát hắn trong đường hào.

D' Artagnan thích dùng cách thứ hai hơn và xốc tên sát thủ lên vai vừa đúng lúc hỏa lực của địch quân bắn ra. Một cái giật nhẹ, tiếng kêu đục của ba viên đạn cắm vào thịt, một cái rùng mình hấp hối đã chứng tỏ cho D' Artagnan thấy kẻ địch ám sát chàng vừa cứu mạng chàng.

D' Artagnan về tới đường hào, ném cái thây ma xuống cạnh tên bị thương cũng nhợt nhạt như một người chết.

Ngay tức khắc chàng bắt đầu lục soát xác chết: một ví da, một túi tiền đương nhiên có một nửa số tiền tên cướp đã nhận được, một ống sừng gieo xúc xắc và mấy con xúc xắc, hợp thành tài sản của kẻ bị chết.

Chàng để mặc ống gieo và xúc xắc rơi ra đất, ném túi tiền cho tên bị thương và mở ví ra.

Giữa vài thứ giấy tờ không quan trọng, chàng tìm thấy bức thư, chính là bức thư chàng đã liều mạng để tìm ra.

"Một khi các anh đã mất dấu vết của mụ đàn bà và bây giờ mụ đang an toàn trong một tu viện mà các anh đáng lẽ không được để mụ đến đó, vậy hãy cố ít nhất đừng để hụt gã đàn ông. Nếu không, các anh sẽ biết ta có bàn tay dài như thế nào và các anh sẽ phải trả đắt món một trăm đồng louis nhận của ta".

Không có chữ ký. Tuy nhiên rõ ràng bức thư là của Milady.

Do đó, chàng giữ nó như một tang chứng và để an toàn, chàng tiến hành thẩm vấn tên bị thương ở góc chiến hào. Tên này thú nhận cùng với bạn mình, vẫn cái tên vừa bị giết ấy, được giao trách nhiệm bắt cóc một thiếu phụ sẽ phải ra khỏi Paris qua trạm La Vilét nhưng vì dừng lại chén chú chén anh trong một quán rượu, chúng tóm hụt chiếc xe mươi phút.

- Nhưng chúng bay sẽ làm gì người đàn bà ấy? - D' Artagnan lo lắng hỏi.

- Chúng tôi phải giao người ấy cho một tòa nhà ở quảng trường Hoàng gia - Tên bị thương nói.

- Đúng rồi! Đúng rồi! - D' Artagnan lẩm bẩm - Đúng là như vậy, đến chính nhà Milady.

Lúc đó, D' Artagnan mới rùng mình hiểu ra cơn khát trả thù khủng khiếp đã đẩy mụ đàn bà đó đến mức làm hại chàng và cả những người rất mực yêu chàng, và một khi mụ đã phát hiện ra tất cả như thế, đủ biết mụ thông thạo công việc triều chính đến thế nào. Chắc chắn mụ phải lấy những tin tức Từ Giáo chủ.

Nhưng ở giữa tất cả mọi cái đó, chàng hiểu, với một tình cảm vui mừng thực sự là Hoàng hậu cuối cùng đã tìm ra nhà tù mà nàng Bonacieux tội nghiệp vì tận tậm hết sức phải chịu, và đã giải thoát nàng khỏi nhà tù đó. Vậy là bức thư chàng nhận được của thiếu phụ và việc nàng đi qua con đường Sayô, đi qua như một sự hiện hình đã được giải thích rõ.

Từ đó, như Athos đã tiên đoán, có thể tìm lại được bà Bonacieux và một tu viện không phải là không với tới được.

Nghĩ vậy nên lòng độ lượng trở lại với chàng. Chàng quay lại tên bị thương đang lo lắng theo dõi những biểu hiện khác nhau trên nét mặt chàng và chìa cánh tay ra bảo:

- Vịn vào đây rồi cùng trở về chiến tuyến, tao không muốn bỏ lại mày như thế.

- Vâng - Tên bị thương không tin nổi có sự đại lượng đến thế - Nhưng không phải để treo cổ tôi lên đấy chứ?

- Mày đã được tao hứa rồi - Chàng nói - và lần thứ hai, tao hứa tha chết cho mày.

Tên bị thương liền quỳ xuống và lại hôn chân lần nữa người đã tha mạng hắn, nhưng D' Artagnan không có lý do nào để cảm nhận quá gần kẻ thù như thế, liền cắt phăng những biểu lộ biết ơn ấy đi.

Người lính cận vệ trở về sau loạt súng đầu tiên của pháo lũy đã báo bốn đồng đội bị chết cả, nay thấy chàng trai trẻ lại hiện ra bình an vô sự, mọi người trong binh đoàn đều hết sức ngạc nhiên và vui sướng.

D' Artagnan giải thích vết gươm đâm của tên đồng đội bằng cách bịa ra chuyện phá vây. Chàng kể lại cái chết của tên lính kia và những nguy hiểm mà họ đã trải qua. Câu chuyện kể lại đối với chàng là một cuộc khải hoàn đích thực. Toàn đơn vị nói suốt ngày về cuộc trinh sát này và Đức ông đã gửi lời khen ngợi và chúc mừng chàng.

Hơn nữa, vì mọi hành động đẹp đẽ đều đáng được phần thưởng của chính nó nên hành động đẹp đẽ của D' Artagnan cũng có kết quả là trả lại cho chàng sự bình yên đã mất. Quả vậy, D' Artagnan tin có thể được bình yên, vì hai kẻ thù, một đã bị chết, và kẻ kia trở nên trung thành với chàng.

Sự bình yên này chứng tỏ một điều, là D' Artagnan còn chưa hiểu hết Milady.

Chú thích:

(1) Nữ anh hùng Pháp thế kỷ 15 chống lại quân Anh xâm lược và bị thiêu sống.

(2) Bassompirre. Thống chế và là nhà ngoại giao Pháp, giữ rất nhiều trách nhiệm khác nhau ở Thụy Sĩ, Italia và Anh quốc. Bị tống giam trong ngục Bastille 12 năm vì đã có âm mưu chống lại Giáo chủ Richelieu. Để lại những tập hồi ký rất thú vị.

(3) Huân chương do vua Henri III đặt ra năm 1578 trong cuộc chiến giữa liên minh tôn giáo với giáo phái Canvanh

(4) Cuộc thảm sát người Tin lành ở miền Trung nước Pháp, nhất là ở vùng Cêven trước và sau sắc lệnh Nante.

(5) Hầu tước De Taleiran de Cale, sủng thần của Louis XIII bị buộc tội âm mưu chống lại Giáo chủ Richelieu, bị bắt ở Nante và bị chặt đầu năm 1626

Các Thiên tình sử khiến bạn "đẫm lệ"

Ngưu Lang - Chức Nữ, Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài... được coi là điển hình trong những câu chuyện tình yêu buồn đẫm lệ.

Đối với người Á Đông, mỗi khi nhắc tới ngày mùng 7 tháng 7 âm lịch, ai cũng nghĩ ngay tới mưa ngâu, tới câu chuyện tình buồn giữa Ngưu Lang - Chức Nữ. Tuy nhiên, trong các nền văn hóa xa xưa, đây không phải là thiên tình sử đẫm lệ duy nhất. 

Hãy cùng điểm lại những câu chuyện tình yêu đẹp nhưng kết thúc buồn bã từ cổ chí kim…
 
1. Chuyện tình Ngưu Lang – Chức Nữ
 
Chuyện tình Ngưu Lang – Chức Nữ còn được biết tới với tên gọi Ông Ngâu – Bà Ngâu. Truyện này xuất hiện trong cả văn hóa dân gian Việt Nam lẫn Trung Quốc với những dị bản rất khác nhau.
 
Trong phiên bản Việt, Ngưu Lang là vị thần chăn trâu của Ngọc Hoàng Thượng Đế, còn Chức Nữ là tiên nữ phụ trách công việc dệt vải. Họ yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên, ngày đêm chỉ nghĩ tới người còn lại. 

Tình yêu tươi đẹp của Ngưu Lang - Chức Nữ trước khi biến cố xảy tới.

Tình yêu này nồng nhiệt và say đắm tới mức Ngưu Lang bỏ bê việc chăn trâu, để trâu đi nghênh ngang vào điện Ngọc Hư. Về phần Chức Nữ, vì say mê tiếng tiêu réo rắt của Ngưu Lang, nàng trễ nải việc dệt vải được giao. 

Ngọc Hoàng sai thiên binh chia cắt Ngưu Lang và Chức Nữ sang hai đầu sông Ngân Hà.

Mối tình này khiến Ngọc Hoàng không hài lòng. Trong lúc tức giận, Ngài bắt cả hai phải xa cách nhau giữa hai đầu sông Ngân. May sao sau này, Ngài cảm thương cuộc tình đẹp của hai người mà cho phép họ gặp nhau mỗi năm một lần. 

Hàng vạn con quạ bay tới bắc cầu Ô Thước mỗi dịp đầu tháng Bảy âm lịch.

Ngọc Hoàng cử thợ mộc dưới trần lên trời làm một cây cầu bắc qua sông Ngân cho Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau. Song do mỗi người một ý, đám thợ mộc không xây xong cầu đúng hạn của Ngọc Hoàng nên bị hóa thành quạ, phải cùng nhau kết lại thành cầu Ô Thước.

Khoảnh khắc đoàn tụ của Ngưu Lang và Chức Nữ.

Nhờ vậy, cứ vào mùng 7/7 âm lịch hàng năm, Ngưu Lang và Chức Nữ lại vượt cầu Ô Thước để gặp lại nhau. Trong giờ phút tiễn biệt, cả hai đều khóc sướt mướt và luyến tiếc người yêu. Nước mắt của họ rơi xuống trần gian và hóa thành mưa ngâu như chúng ta thường biết. 
 
2. Chuyện tình Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài
 
So với chuyện tình buồn của Ngưu Lang và Chức Nữ, tình yêu của Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài thậm chí còn éo le và ngang trái hơn rất nhiều. 
 
Trong truyền thuyết Trung Hoa, chuyện tình Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài xảy ra vào thời Đông Tấn (317 - 420). Thời ấy, Chúc Anh Đài là một thiếu nữ thông minh quê ở Chiết Giang. Vì yêu thích thơ văn nên cô đã cải trang thành con trai để đi học tại trường Nghi Sơn, Hàng Châu. Trên đường đi, cô quen Lương Sơn Bá – một thư sinh học cùng trường. 

Tình cảm của Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài nảy nở khi họ cùng học tập với nhau và kết nghĩa huynh đệ.

Học cùng nhau 3 năm, Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài vô cùng thân thiết. Về phần mình, Lương Sơn Bá chẳng hề hay biết người huynh đệ kết nghĩa lại chính là một cô gái. Còn Chúc Anh Đài, thời gian bên nhau khiến cô đem lòng yêu Sơn Bá. 

Tạo hình hai nhân vật Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài trên phim.

Khi rời trường, cô còn hứa sẽ thu xếp để chàng cưới em gái mình (thực chất là ý nói cô). Lương Sơn Bá sau đó tới nhà Chúc Anh Đài đã phát hiện ra giới tính thật sự của người huynh đệ. Hai người từ đó yêu nhau say đắm, nguyện sống chết cùng nhau.  
 
Trớ trêu thay, cha mẹ Chúc Anh Đài đã hứa gả cô cho Mã Văn Tài - một thiếu gia giàu có. Âu sầu vì duyên tình ngang trái, Lương Sơn Bá lâm bệnh và qua đời khi đang làm quan tri huyện. 

Chúc Anh Đài quỳ bên mộ của người yêu đã khuất... 

Câu chuyện kết thúc vào ngày cưới của Chúc Anh Đài khi đoàn rước dâu đi ngang qua mộ Lương Sơn Bá. Khi ấy, một trận cuồng phong nổi lên, Chúc Anh Đài lúc đó đang cúng tế mộ người tình đã khuất bỗng thấy nắp mộ mở ra. 

Cả hai hóa thành bươm bướm và mãi mãi quấn quýt bên nhau.

Nàng chẳng hề đắn đo suy nghĩ mà đi thẳng vào và biến mất. Người đời sau kể lại, từ phần mộ của Lương Sơn Bá, một đôi bướm quấn quýt bên nhau bay ra có lẽ cũng chính là hóa thân của đôi tình nhân sẽ mãi ở bên nhau trong kiếp uyên ương hồ điệp.

3. Chuyện tình Artemis – Orion
 
Không chỉ văn hóa Á Đông mới có những câu chuyện tình buồn mà thần thoại phương Tây cũng không ít mối tình éo le, đau khổ. Trong đó, thiên tình sử của nữ thần Artemis với chàng Orion là một điển hình.
 
Artemis vốn là nữ thần săn bắn, đã từng lập một lời thề sẽ không bao giờ kết hôn để bảo vệ trinh tiết. Song, trước tài năng và vẻ đẹp của chàng thợ săn Orion, Artemis đã đem lòng say mê ngay từ cái nhìn đầu tiên. 

Artemis - nữ thần Mặt trăng và săn bắn đem lòng yêu một thợ săn người trần là Orion.

Dẫu vậy, dù yêu nhau mãnh liệt, cùng nhau đi săn, ăn tối nhưng Artemis vẫn luôn tuân theo lời thề của mình chưa một lần ngủ với Orion.

Chuyện tình đẹp như mơ của hai người bị chính người anh em sinh đôi của Artemis - thần Mặt trời Apollo ngăn cản. Thần luôn cho rằng dù Artemis có lý trí thế nào cũng sớm muộn gì cũng kết hôn với Orion. Vì vậy, Apollo đã thừa lúc Orion đang bơi xa bờ, nhìn từ xa chỉ thấy đầu chàng là một chấm đen nhỏ trên mặt nước bèn tới gặp Artemis. 

Apollo chê khả năng bắn cung của Artemis và thách nàng bắn trúng chấm đen nhỏ đang di chuyển trên đại dương. Vì quá nóng giận trước sự giễu cợt của anh trai, Artemis giương cung và bắn thẳng vào mục tiêu mà Apollo chỉ - đầu của Orion. 

Hình ảnh chàng dũng sĩ Orion hóa thân thành một chòm sao trên bầu trời, luôn sát cánh bên nữ thần Artemis.

Mũi tên bay đi rất nhanh và tất nhiên, giết chết Orion. Khi xác chàng dạt vào bờ, Artemis đau đớn tột cùng và nhận ra chính tay mình đã giết chết người yêu. Thần đau buồn và hóa thân xác Orion thành một chòm sao để hàng đêm có thể ở bên cạnh người yêu đã khuất của mình.
 
4. Chuyện tình Orpheus - Eurydice 
 
Trong thần thoại Hy Lạp, Orpheus là một đại thi hào và nhạc sĩ lừng danh gắn liền với cây đàn lyre. Tương truyền, tiếng đàn và giọng ca của Orpheus có thể làm xiêu lòng vạn vật, trời đất lẫn thần linh. Orpheus yêu say đắm một người con gái tên Eurydice và cả hai đã quyết định kết hôn. 
 
Tình yêu tươi đẹp giữa Orpheus và nàng Eurydice.

Tuy nhiên, cái kết trong tình yêu của họ lại không hề tốt đẹp. Đúng trong ngày thành hôn, Eurydice bị rắn độc cắn chết. Quá đau đớn và bàng hoàng nhưng vì tình yêu, Orpheus lặn lội tìm đường xuống âm phủ. 

Nhờ có tiếng đàn thánh thót, chàng đã làm thần địa ngục Hades cảm động, cho phép Eurydice trở về dương gian với điều kiện: trên đường về, Orpheus phải im lặng và không được ngoái lại nhìn người vợ đi đằng sau. 

Nhờ tiếng đàn kì diệu, Orpheus đã thuyết phục được thần Hades cho phép cứu người yêu.

Thế nhưng, gần tới trần gian, vì đi quá lâu mà không nghe thấy tiếng bước chân và hơi thở của người yêu, Orpheus đã ngoái lại phía sau nhìn. Đó là lúc Eurydice vĩnh viễn biến mất, không được phép sống lại nữa, bất chấp Orpheus sau đó đã quỳ 7 ngày 7 đêm ở địa ngục để cầu xin. 

Nhưng cũng chính vì tình yêu và sự nóng vội, Eurydice đã vụt mất khỏi tay Orpheus khi gần trở về với dương gian.

Trở lại dương gian, Orpheus không còn quan tâm đến một cô gái nào khác. Chàng cuối cùng bị đánh tới chết bởi những người đàn bà say rượu, kết thúc một câu chuyện tình buồn thảm và bi thương.

BA CHÀNG LÍNH NGỰ LÂM CHƯƠNG 40 Một ảo ảnh khủng khiếp

Ba chàng lính ngự lâm
Tác giả: Alexandre Dumas
Dịch giả: Nguyễn Bản
Chương 40  Một ảo ảnh khủng khiếp

Giáo chủ chống khuỷu tay lên bản thảo, tỳ tay lên má, và nhìn chàng trai trẻ một lát. Không ai có cái nhìn soi mói sâu hút như Giáo chủ Richelieu và D' Artagnan bị cái nhìn ấy chạy dọc mạch máu mình như một cơn sốt.

Tuy nhiên chàng vẫn giữ được bình tĩnh, tay cầm mũ, và chờ đợi thái độ dễ chịu hơn của Giáo chủ, không quá kiêu hãnh mà không quá khúm núm.

- Ông kia, - Giáo chủ bảo chàng - Ông có phải D' Artagnan xứ Bearn không?

BA CHÀNG LÍNH NGỰ LÂM CHƯƠNG 39 Ảo ảnh

Ba chàng lính ngự lâm
Tác giả: Alexandre Dumas
Dịch giả: Nguyễn Bản
Chương 39 Ảo ảnh

Lúc bốn giờ, bốn người bạn lại tụ tập ở nhà Athos. Những băn khoăn lo lắng của họ về việc mua sắm quân trang đã hoàn toàn biến mất. Trên khuôn mặt mỗi người chỉ còn lại những nét ưu tư thầm kín riêng tư nữa mà thôi, vì đằng sau mọi hạnh phục hiện thời lại ẩn giấu một nỗi lo sẽ tới.

BA CHÀNG LÍNH NGỰ LÂM CHƯƠNG 38 Không mất công xoay xở, Athos vẫn có được quân trang.

Ba chàng lính ngự lâm
Tác giả: Alexandre Dumas
Dịch giả: Nguyễn Bản
Chương 38 Không mất công xoay xở, Athos vẫn có được quân trang

Chàng trai trẻ trốn mất còn nàng vẫn giơ nắm đấm lăm dọa chàng một cách bất lực. Đến lúc không còn trông thấy chàng nữa, Milady ngã bất tỉnh trong phòng mình.

D' Artagnan bối rối đến nước không còn lo lắng đến Ketty sẽ ra sao nữa, chàng vừa đi vừa chạy xuyên qua cả nửa Paris và chỉ dừng lại trước cửa nhà Athos. Hoang mang, sợ hãi, rồi thêm vào là tiếng thét của bọn lính tuần tra rượt đuổi, tiếng hò la của mấy người qua đường đi làm sớm càng khiến chàng chạy cuống cuông.

BA CHÀNG LÍNH NGỰ LÂM CHƯƠNG 37 Bí mật của Milady

Ba chàng lính ngự lâm
Tác giả: Alexandre Dumas
Dịch giả: Nguyễn Bản
Chương 37 Bí mật của Milady

Đáng lẽ lên ngay phòng Ketty, D' Artagnan lại ra khỏi tòa nhà, mặc cho những lời nằn nì của cô gái, vì hai lẽ, thứ nhất làm như thế sẽ tránh được những lời trách móc, cãi lý, van xin, thứ hai để được thư thái xem lại tư tưởng của mình một chút và nếu có thể của cả mụ đàn bà kia nữa.

Nguồn gốc tháng 7 cô hồn

Nguồn gốc tháng cô hồn

Tháng 7 âm lịch hàng năm còn được gọi là “tháng cô hồn” hoặc “mở cửa mả”. Dân gian quan niệm đây là tháng của ma quỷ, đặc biệt là ngày rằm tháng bảy là ngày “xá tội vong nhân” – ngày Diêm Vương mở cửa Quỷ Môn Quan để ma quỷ được tự do trở về dương thế, đó cũng chính là ngày “âm khí xung thiên”.


Hình ảnh Diêm Vương cai quản Quỷ Môn Quan.

Ở Trung Quốc, nguồn gốc của tháng cô hồn bắt nguồn từ việc Diêm Vương cho mở cửa Quỷ môn quan vào ngày 2/7 hàng năm để quỷ đói được trở lại trần gian rồi đến rằm lại quay về. Chính vì thế mà theo tục lệ dân gian, người trần gian phải cúng cháo, gạo, muối cho quỷ đói để chúng không quấy nhiễu cuộc sống thường ngày. Có những nơi, người ta gọi quỷ đói là “anh em tốt”, “thần cửa sau” để lấy lòng những linh hồn quỷ đói này. Hàng năm, người dân Trung Quốc tiến hành cúng cô hồn vào ngày 14/7 Âm lịch.

Ở Việt Nam, cúng cô hồn là một tín ngưỡng tâm linh truyền thống của người Việt, được truyền từ đời này sang đời khác. Người Việt cho rằng, con người bao gồm hai phần là hồn và xác. Khi con người mất đi nhưng phần hồn vẫn tồn tại, có người thì được đầu thai khiếp khác hay có người thì bị đầy xuống địa ngục, làm quỷ đói quấy nhiễu dương gian. Hàng năm, người Việt cúng cô hồn kéo dài một tháng, tùy thuộc vào từng gia đình, từng vùng miền khác nhau chứ không ấn định riêng một ngày nào. Người dân cũng quan niệm rằng, tháng cô hồn là tháng ma quỷ, không đêm lại may mắn nên hầu hết các công việc cưới hỏi, khởi công xây dựng, mua sắm, đi xa,… đều tránh tháng 7.


Hình ảnh con quỷ đói trong tín ngưỡng dân gian.

Trong tháng 7 Âm lịch hàng năm thì ngoài lễ cúng Cô hồn còn có lễ Vu lan. Lễ Vu lan hay còn gọi là Lễ báo hiếu, là một trong những ngày lễ chính của Phật giáo. Lễ Vu lan gắn với tích về Mục Kiền Liên, đệ tử của Đức Phật, là một vị tôn giả tu luyện được nhiều phép thần thông. Theo lời Phật dạy, các phật tử muốn báo hiếu cha mẹ thì cử hành lễ Vu Lan để cầu siêu cho các đấng sinh thành và cầu phá địa ngục cho những vong hồn.

Tháng cô hồn và lễ Vu lan không chỉ phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc mà còn ở rất nhiều các quốc gia khác, đặc biệt là các nước Á Đông. Ở Nhật Bản, ngày lễ này được tổ chức vào ngày 7/7 Âm lịch và cả ngày rằm tháng bảy. Ở Đài Loan thì, ngày lễ này được kéo dài cả tháng nhưng thông thường thường tập trung vào ngày 15 của tháng với ba phần khác nhau: đầu tiên là mời các vong hồn, cúng tế cho họ ăn vào ngày 15 và đưa tiễn họ vào ngày 29.


Lễ cúng ngày “xá tội vong nhân”

Tháng cô hồn hay tháng “xá tội vong nhân” là một tín ngưỡng dân gian quan trọng và có liên quan tới ma quỷ, tâm linh nên rất được người Việt quan trọng. Ngoài những lễ tiết cúng bái, dân gian ta còn tương truyền cả những điều con người nên làm và không nên làm trong tháng cô hồn để cho cầu mong được bình an, hạnh phúc.

Dưới đây là những điều cấm kỵ và những điều nên làm trong tháng cô hồn:

18 điều cấm kỵ

1. Không treo chuông gió ở đầu giường ngủ vì tiếng chuông sẽ thu hút sự chú ý của ma quỷ, khi con người ngủ sẽ dễ bị chúng xâm nhập quấy phá.

2. Người yếu bóng vía không nên đi chơi đêm trong những ngày tháng cô hồn, nếu không sẽ dễ gặp điều không may.

3. Không được nhổ lông chân vào ngày này, vì dân gian cho rằng “Một sợi lông chân quản ba con quỷ”, người càng có nhiều lông chân thì ma quỷ càng ít dám đến gần.

4. Không tùy tiện đốt giấy, vàng mã vì như vậy sẽ khiến ma quỷ bu đến.

5. Không ăn vụng đồ cúng, vì đó là đồ dành cho ma quỷ, nếu chưa cúng và cầu xin mà lấy ăn sẽ rước tai hoạ vào mình.


Không được ăn vụng đồ cúng vì đó là đồ dành cho ma quỷ.

6. Không phơi quần áo vào ban đêm, vì ma quỷ trông thấy sẽ “mượn” và để lại “quỷ khí” trong các quần áo ấy.

7. Những người khi đi chơi đêm không được réo gọi tên nhau, nếu không ma quỷ sẽ ghi nhớ tên người được gọi, đó là điềm xấu.

8. Không nên bơi lội, vì ma quỷ sẽ cùng đùa với bạn, nếu không cẩn thận, bạn sẽ bị chúng làm trặc trẹo chân.

9. Không hù doạ người khác khiến họ giật mình “hồn bay phách lạc” dễ bị ma quỷ xâm nhập.

10. Cây đa trước nhà là nơi hội tụ âm khí, ma quỷ rất thích những chỗ như vậy, cho nên kỵ đứng, ngồi, nằm, trốn… ở đó.

11. Không nên thức quá khuya, vì như vậy tinh thần sẽ hao tổn suy nhược, dễ nhiễm “quỷ khí”.

12. Nơi góc tường xó tối là những chỗ ma quỷ thường tụ tập nghỉ ngơi, không nên đến gần những chỗ ấy.

13. Không nhặt tiền bạc rơi vãi trên đường, vì có thể đó là tiền người ta cúng mua chuộc bọn quỷ đầu trâu mặt ngựa, nếu người nào phạm kỵ, sẽ gặp tai hoạ không chừng.

14. Khi đi đến qua những nơi vắng vẻ, không ngoái cổ quay đầu nhìn lại phía sau, dù có cảm giác “hình như” có người đang đi theo mình hoặc gọi tên mình. Vì đó có thể do ma quỷ trêu chọc.

15. Khi lên giường ngủ không để mũi dép hướng về phía giường, nếu không ma quỷ nhìn thấy sẽ đoán rằng có người sống đang nằm trên giường và chúng sẽ lên giường ngủ chung với bạn.

16. Không cắm đũa đứng giữa bát cơm, vì đó là hình thức cúng tế, cũng giống như kiểu thắp hương, dễ dẫn dụ ma quỷ vào nhà ăn chung.

17. Không nên ở một mình trong thời gian này, nếu không sẽ dễ bị ma quỷ dẫn dắt hoặc quấy phá.

18. Không chụp ảnh vào ban đêm, bởi ma quỷ luôn lảng vảng chung quanh đó sẽ “vô hình” vào ảnh chung với người sống, đó là điều không tốt.

13 điều nên làm

1. Làm lễ cúng các cô hồn vào bất cứ ngày nào trong tháng, nếu vào ngày mùng 2 hoặc 16 âm lịch thì càng tốt để tỏ lòng thành chính mình.

2. Thăm mộ phần của người thân trong gia đình ở ngoài nghĩa địa hay trong trong chùa chiền, nơi lưu giữ các hũ hài cốt. Vì trong tháng cô hồn còn gọi là Tết của những người Âm.

3. Trước khi dọn đồ ra cúng cô hồn, nếu chưa kịp thắp nhang khấn vái mà có những người tranh nhau giật các đồ cúng từ trên tay bạn thì ngay lập tức nên buông thả đồ cúng ra khỏi tay. Nếu bạn giật lại thì hậu quả nhận được là những điều tệ hại. Nếu khi bạn chưa làm lễ cúng mà đã có người chầu chực để giật có nghĩa là tín hiệu tốt.

4. Nên hạn chế sát sinh các con vật.

5. Nên cúng xe ô tô dù có kinh doanh hay không kinh doanh.

6. Nên ăn chay để tránh điềm dữ.

7. Nên làm phúc thiện mạnh mẽ trong tháng này.

8. Nếu biết tụng kinh thì nên trì tụng (Chú Đại bi, chuẩn đề, vu lan báo hiếu, Địa tạng).

9. Nên ăn nói nhã nhặn, vui vẻ trong gia đình hay trong bạn bè đối tác.

10. Nên tránh xa các cuộc xung đột.

11. Nên cứu người khi gặp nguy cấp.

12. Nên đi chùa chiền thắp nhang cầu xin sức khỏe, cầu siêu…


Nên thành tâm, lễ chùa và làm việc thiện trong tháng cô hồn.

13. Khi các bạn cúng cô hồn xong thì 1 ngày sau đó hoặc cuối tháng 7 nên dùng bột trừ tà ma tiêu khử, tránh trường hợp các âm hương linh phảng phất vào nhà mình tụ ở lại. Đồng thời vào đầu tháng 8 âm lịch thì nên dùng bột tẩy uế mà tẩy hoàn toàn trong căn nhà mình để có tác dụng cân bằng sinh khí trong ngôi nhà mình ở.

Những điều nên làm hay không nên làm trong tháng cô hồn đều là những tín ngưỡng dân gian mà không ai hay một ngành khoa học nào có thể kiểm chứng đúng sai. Nhưng với quan niệm rằng “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” nên người dân vẫn chú trọng làm theo. Hơn nữa, người Việt cho rằng cúng cô hồn là một hành động nhân đạo, mang tính nhân văn cao cả của con người, thể hiện lòng kính trọng, tôn nghiêm của người còn sống đối với người đã khuất, đề cao việc báo hiếu và làm phúc bố thí…