468x1000 Ads

Truyện

BA CHÀNG LÍNH NGỰ LÂM CHƯƠNG 20 Du hành

Ba chàng lính ngự lâm
Tác giả: Alexandre Dumas
Dịch giả: Nguyễn Bản
Chương 20 Du hành

- Đúng hai giờ sáng, bốn chàng phiêu lưu của chúng ta ra khỏi Paris, qua cửa ô Saint-Denis. Chừng nào vẫn còn là đêm, họ vẫn phải câm lặng. Dẫu không nói, họ vẫn chịu ảnh hưởng của bóng đêm và nhìn đâu cũng thấy ổ phục kích.

Vừa rạng sáng, lưỡi họ mới như được cởi trói. Cùng với mặt trời, niềm vui trở lại. Thật giống như đêm trước một cuộc giao chiến, tim đập mạnh, mắt long lanh, người ta cảm thấy cuộc đời mình sắp lìa bỏ suy cho cùng vẫn là một cái gì tốt đẹp.

Cảnh tượng đoàn người ngựa xem ra thật dữ dội. Những con ngựa ô của ngự lâm quân, dáng dấp hiếu chiến, rồi thói quen bước đều trong đội kỵ binh của những đồng đội cao quý ay, tất cả những cái đó có thể làm lộ một sự giả dạng chặt chẽ nhất. Những tên hầu theo sau, vũ trang đến tận răng.

Mọi việc đều ổn thỏa cho tới khi đến Sángtily vào lúc tám giờ sáng. Phải ăn sáng đã. Họ xuống ngựa trước một quán ăn trưng một biển hiệu vẽ Saint-Martin chia một nửa tấm áo khoác cho một người nghèo. Bọn người hầu được lệnh không được tháo yên cương ngựa và ở tư thế sẵn sàng đi ngay.

Bọn họ vào căn phòng công cộng và ngồi vào bàn. Một nhà quý tộc theo đường D' Artagnan vừa tới cũng vào ngồi cùng bàn và điểm tâm. Hắn gợi chuyện về trời mưa và nắng ráo. Các lữ khách đáp chuyện. Hắn uống chúc họ sức khoẻ. Các lữ khách cũng đáp lễ lại.

Nhưng khi Mousqueton vào báo ngựa đã sẵn sàng, và khi mọi người đứng lên, người lạ đề nghị Porthos nâng cốc chúc sức khỏe Giáo chủ. Porthos trả lời chàng không đòi hỏi gì hơn nếu người lạ đến lượt mình cũng xuống chúc sức khỏe nhà Vua.

Người lạ hét lên hắn không biết nhà Vua nào ngoài Giáo chủ.

Porthos gọi hắn là thằng say rượu. Người lạ rút gươm.

- Cậu lại làm một chuyện dại dột rồi - Athos nói - thôi kệ vậy, lúc này có lùi cũng không được rồi, giết nó đi rồi đuổi kịp bọn mình càng nhanh càng tốt.

Và cả ba đều lên ngựa phi nước đại ra đi trong khi Porthos hứa với đối thủ sẽ đâm xuyên qua người hắn bằng tất cả các thế của thuật đấu gươm.

Đi được khoảng năm trăm bước, Athos nói:

- Thế là xong một tên?

- Nhưng tại sao tên đó lại tấn công vào Porthos thay vì mọi người khác? - Aramis hỏi.

- Tại vì - Porthos nói to hơn tất cả chúng ta, nó tưởng anh ấy là chỉ huy - D' Artagnan nói.

Athos lẩm nhẩm:

- Mình luôn bảo, cái cậu tập sự Gátxcông này là một tay khôn ngoan thâm thúy mà.

Các lữ khách lại tiếp tục lên đường.

Đến Bôve, họ dừng lại hai giờ, vừa để cho ngựa thở, vừa để chờ Porthos. Không thấy Porthos đến, cũng chẳng có tin gì về chàng, họ lại lên đường.

Đi khỏi Bôve chừng một dặm, đến một chỗ đường đi thắt lại giữa hai vạt đất, họ gặp một bọn tám đến mười người, lợi dụng đoạn đường bị bong đá lát có vẻ như đang làm việc ở đó bằng việc đào hố và xẻ rãnh bùn.

Aramis sợ bẩn ủng trong lớp vữa nhân tạo ấy, quát mắng bọn họ thậm tệ. Athos muốn ngăn chàng lại, nhưng đã quá muộn. Những người thợ bèn châm chọc các lữ khách, sự cấc lấc của họ làm điên đầu cả đến chàng Athos tính lạnh, đến mức thúc ngựa xông vào một người trong bọn.

Thế là mỗi người trong bọn họ đều lùi lại đến tận cái hố, và vồ lấy một khẩu hỏa mai giấu ở đấy. Kết quả là bẩy lữ khách của chúng ta chẳng khác gì được đem ra để thử súng. Aramis nhận một viên đạn xuyên qua vai và Mousqueton bị một viên cắm vào thịt vùng dưới thận. Tuy nhiên chỉ có mỗi Mousqueton ngã ngựa không phải vì bị trọng thương, mà vì hắn không thể nhìn thấy vết thương, chắc hắn tưởng nguy hiểm chứ đâu phải thường.

- Đây là một ổ phục kích - D' Artagnan nói - Đừng bắn nữa, lên đường thôi.

Aramis tuy bị thương vẫn giữ chặt bờm ngựa, đi theo những người khác. Ngựa của Mousqueton cũng đuổi kịp đoàn và phi một mình không chủ.

- Chúng ta sẽ có một con ngựa để thay đây. Athos nói.

- Giá tôi có một chiếc mũ thì tốt quá - D' Artagnan nói - Mũ của tôi bị đạn làm bay mất rồi. Kể cũng may chán, vì bức thư không để ở trong mũ.

Aramis nói:

- Nhưng bọn chúng sẽ giết Porthos khi cậu ấy qua đây mất.

- Nếu Porthos còn đứng vững trên đôi chân của mình, có lẽ cậu ấy bây giờ đã đuổi kịp chúng ta - Athos nói - Tôi nghĩ lúc giao tranh, tên say sẽ tỉnh rượu.

Rồi họ lại phi ngựa trong hai tiếng nữa, cho dù ngựa đã quá mệt đến nỗi họ sợ chúng không chịu cho cưỡi nữa.

Các lữ khách đi theo lối tắt hy vọng sẽ bớt lo. Nhưng đến Crevơcơ (Crève - Vỡ tim), Aramis tuyên bố chàng không thể đi xa hơn được nữa. Quả thật, để đi được đến đây, chàng đã phải lấy hết can đảm được che giấu dưới bề ngoài trang nhã và cung cách lịch thiệp của mình. Mỗi lúc chàng càng tái nhợt đi và mọi người phải đỡ chàng ngồi vửng trên mình ngựa. Họ để chàng xuống ngựa trước cửa một tửu quán, cho Bazin ở lại với chàng, vả chăng hắn chỉ tổ vướng chân nếu xảy ra đụng độ chứ chẳng được ích lợi gì. Rồi họ lại lên đường với hy vọng đến ngủ ở Amiêng.

Rong ruổi trên đường, lúc này chỉ còn Grimaud, Planchet và hai ông chủ, Athos nói:

- Mẹ kiếp! Bọn chúng sẽ không lừa nổi mình nữa đâu, mình đảm bảo với cậu từ đây đến Cale, chúng đừng hòng cậy nổi răng mình hoặc làm mình rút gươm khỏi vỏ.

- Thôi đừng thề thốt nữa - D' Artagnan nói - Hãy phi lên, nếu lũ ngựa còn chịu.

Các du khách thúc đinh vào bụng ngựa, lũ ngựa được kích thích mạnh, lấy lại được sức. Họ đến Amiêng vào lúc nửa đêm và xuống ngựa ở quán trọ Huệ vàng.

Chủ quán có vẻ là một người lương thiện nhất trên đời. Lão ta tay mang cây đèn nến, tay kia ngả mũ bông chào đón khách. Hắn muốn để hai vị khách, mỗi người ngủ một căn phòng duyên dáng, nhưng chán nỗi mỗi phòng lại ở mỗi đầu quán trọ.

D' Artagnan và Athos từ chối. Chủ quán nài mãi. Lừ khách vẫn một mực như thế. Đành phải tùy lữ khách vậy.

Họ vừa xếp đặt chỗ ngủ và chặn cửa phía trong xong thì có tiếng gõ cửa sổ trông ra sân, họ hỏi xem ai thì nhận ra tiếng nói của những người hầu, và mở ra.

Quả nhiên đó là Planchet và Grimaud. Planchet nói:

- Một mình Grimaud thôi cũng đủ để canh ngựa, và nếu các ông muốn, tôi sẽ nằm chắn cửa, như thế các ông sẽ yên trí không ai lọt vào chỗ các ông được.

- Thế anh ngủ trên cái gì? - D' Artagnan hỏi.

Planchet trả lời:

- Giường tôi đây. - Và anh ta chỉ một bó rơm.

- Vậy vào đi! - D' Artagnan nói - Anh có lý đấy, cái bộ mặt lão chủ quán làm ta không ưa, trông thớ lợ quá.

Athos nói:

- Cả tôi nữa cũng thấy thế.

Planchet trèo qua cửa sổ, nằm chắn ngang cửa, còn Grimaud thì chui vào chồng ngựa đảm bảo năm giờ sáng anh ta và ngựa đã sẵn sàng.

Đêm khá yên tĩnh. Khoảng hai giờ sáng, có kẻ định mở cửa thật. Nhưng Planchet giật mình chồm dậy, và kêu lên: "Ai đó?". Kẻ kia trả lời mình nhầm và bỏ đi.

Lúc bốn giờ sáng, có tiếng ầm ầm ở chuồng ngựa. Grimaud muốn đánh thức bọn trai coi ngựa, và bọn chúng đã đánh hắn.

Khi mấy người mở cửa sổ, thì thấy gã hầu tội nghiệp nằm bất tỉnh, đầu bị một đòn cán chĩa đánh vỡ.

Planchet đi xuống sân và định gióng lại yên cương cho ngựa.

Chân ngựa đều bị tụ máu. Chỉ còn mỗi con của Mousqueton chạy không chủ trong năm sáu tiếng đồng hồ đêm trước có lẽ có thể tiếp tục lên đường. Nhưng do một sự nhầm lẫn không thể chấp nhận được, kẻ có vẻ là thú y giải phẫu mà người ta sai đi tìm để trích máu cho con ngựa của chủ quán, lại trích ngay con ngựa của Mousqueton.

Việc đó khiến mọi người trở nên lo lắng. Tất cả những tai họa kế tiếp nhau có thể do rủi ro, nhưng cũng rất có thể là kết quả của một âm mưu. Athos và D' Artagnan ra ngoài, trong khi đó Planchet hỏi thăm xem xung quanh đây, có ba con ngựa nào muốn bán không? Ở ngoài cửa có hai con ngựa yên cương sẵn sàng, sung sức và lực lưỡng. Đúng là nắng hạn gặp mưa rào. Gã hỏi chủ ngựa đâu, người ta trả lời, họ cũng qua đêm ở đây và lúc này đang tính tiền trả chủ quán.

Athos đi xuống để trả tiền trọ. Còn D' Artagnan và Planchet đứng ở cửa trông ra phố. Chủ quán ở trong một cái phòng thấp và sâu mãi vào trong. Người ta yêu cầu Athos vào trong.

Athos không nghi ngờ gì lấy ra hai đồng vàng để trả. Chủ quán chỉ có một mình và đang ngồi trước bàn làm việc mà một trong số ngăn kéo đã hé mở. Hắn cầm đồng tiền Athos đưa cho, lật đi lật lại từ tay này sang tay khác và bất ngờ kêu toáng lên là tiền giả, hắn tuyên bố sẽ bắt giữ bọn chàng như những kẻ làm tiền giả.

- Quân chó má! - Athos vừa nói vừa tiến lại - Tao sẽ cắt tai mày.

Cùng lúc đó, bốn người trang bị đến tận răng, qua cửa bèn xông vào và nhảy bổ lên Athos.

- Tôi bị bắt - Athos đồn hết sức kêu thật to - chạy đi thôi, D' Artagnan phóng ngựa đi, phóng ngựa mau!

Rồi chàng nhả liền hai phát súng ngắn.

D' Artagnan vì Planchet không để nhắc lại đến lần thứ hai, tháo luôn hai con ngựa chờ ở cửa, nhảy lên, thúc đinh vào bụng ngựa, phóng như bay.

D' Artagnan vừa phi vừa hỏi Planchet:

- Mày có biết Athos bây giờ ra sao không?

- Ồ thưa ông - Planchet nói - tôi trông thấy hai tên ngã vì trúng hai phát đạn, và qua cửa kính, tôi thấy hình như ông đang đọ gươm với những tên khác.

- Hoan hô Athos! - D' Artagnan lẩm nhẩm. Lại nghĩ đến việc mình phải bỏ rơi anh ấy - Ồ, mà có lẽ cũng lại như thế đang đợi ta cách đây mấy bước thôi. Planchet tiến lên, mày tốt lắm! Tiến lên!

- Thưa ông, tôi đã nói với ông rồi - Planchet trả lời. Dân Pica, khi dùng mới biết mà. Hơn nữa, tôi đang trên mảnh đất quê hương, tôi càng phấn khích.

- Và cả hai phi ngựa hết tốc lực, một mạch đến Saint Ômê. Ở Saint Ômê, họ xuống cho ngựa thở, cánh tay vẫn ngoắc dây cương, đề phòng bất trắc và ngồm ngoàm đứng ăn đôi chút ngay giữa phố và rồi lại khởi hành.

Cách cửa ô của Cale chừng trăm bước, ngựa của D' Artagnan quỵ ngã, không có cách nào làm cho nó đứng lên được, máu trào ra mũi và hai mắt, còn lại con ngựa của Planchet, nhưng nó cũng dừng lại, không có cách nào làm nó lại đi nữa.

Cũng may chỉ còn cách thành phố trăm bước, họ bỏ ngựa lại trên đường và chạy về phía cảng. Planchet ra hiệu cho chủ mình chú ý đến một nhà quý tộc cùng với người hầu đi trước bọn họ chừng năm mươi bước.

Họ rảo bước đến gần. Gã quý tộc có vẻ đang rất bận rộn, đôi ủng của gã phủ đầy bụi đường và gã đang hỏi thăm xem có thể qua nước Anh ngay lúc này được không.

Người chủ một chiếc thuyền buồm chuẩn bị căng buồm trả lời:

- Chả có gì dễ hơn việc đó. Nhưng sáng nay có lệnh không được để người nào không được phép khẩn cấp của Giáo chủ đi qua.

- Tôi có giấy phép đó - Gã quý tộc vừa nói vừa rút mảnh giấy trong túi ra - Giấy phép đây!

- Ông hãy đem đến trấn thủ cảng xác nhận - chủ thuyền nói - và đưa cho tôi giấy ưu tiên.

- Tôi phải tìm ông trấn thủ ở đâu?

- Ở dã thự của ông ấy.

- Dã thự ấy ở đâu?

- Cách thành phố một phần tư dặm. Kia kìa, từ đây ông cũng nhìn thấy, cái mái lợp đá đen ở chân cái gò nhỏ ấy.

- Tốt lắm! - Gã quý tộc nói.

Và cùng với người hầu, gã đi theo con đường dẫn đến dã thự của viên trấn thủ.

D' Artagnan và Planchet đi theo gã quý tộc với khoảng cách năm trăm bước.

Ra khỏi thành phố, D' Artagnan rảo bước đuổi kịp gã, vừa lúc gã đi vào một cánh rừng nhỏ.

- Thưa ông - D' Artagnan nói - Ông có vẻ rất vội vã?

- Người ta không thể vội hơn thế, thưa ông.

- Tôi lấy làm tiếc - D' Artagnan nói - vì tôi cũng rất vội, nên tôi muốn nhờ ông giúp tôi một việc.

- Việc gì?

- Để tôi đi trước.

- Không được - gã quý tộc nói - tôi đã đi sáu mươi dặm và mất bốn mươi tư giờ và trưa mai tôi đã phải ở London.

- Tôi cũng đi cùng con đường ấy trong bốn mươi giờ và mười giờ sáng mai tôi phải ở London.

- Thưa ông tiếc thật. Nhưng tôi đến trước, và tôi sẽ không qua sau đâu.

- Rất tiếc thưa ông. Nhưng tôi đến sau, và tôi sẽ qua trước.

- Công việc của nhà Vua! - Gã quý tộc nói.

- Công việc của chính tôi! - D' Artagnan nói.

- Tôi thấy hình như ông định cố tình gây sự với tôi.

- Mẹ kiếp! Thế ông muốn nó là thế nào?

- Ông muốn gì?

- Ông muốn biết điều đó ư?

- Hẳn rồi.

- Vậy thì thế này! Tôi muốn cái lệnh ông đang mang theo, bởi vì tôi không có nó, và tôi lại cần có một cái.

- Tôi cho là ông đang đùa.

- Tôi chả bao giờ đùa.

- Để tôi đi!

- Ông không đi được đâu.

- Anh bạn trẻ tử tế của ta ạ, ta sẽ bắn vỡ đầu anh, Lubanh đâu, súng ngắn của ta.

- Planchet! - D' Artagnan nói - hãy lo tên hầu, còn ta lo thằng chủ.

Planchet hăng hái lập chiến công đầu, nhảy bổ lên Lubanh, và vì khỏe và dũng mãnh, hắn quật Lubanh ngã ngửa ra và tì gối lên ngực rồi nói với D' Artagnan:

- Ông chủ, ông lo việc của ông đi, còn tôi, tôi đã làm xong việc của tôi rồi.

Thấy vậy, gã quý tộc rút gươm nhảy bổ vào D' Artagnan, nhưng gã gặp phải một đối thủ khó nuốt.

Trong khoảng ba giây đồng hồ D' Artagnan đã cho hắn ba nhát gươm, mỗi nhát chàng lại nói:

- Một nhát vì Athos! Một nhát vì Porthos! Một nhát vì Aramis.

Đến nhát thứ ba, gã quý tộc đổ vật xuống như một đống thịt.

D' Artagnan tưởng hắn chết, hoặc ít nhất cũng bị ngất, lại gần hắn để chiếm lấy cái lệnh, nhưng đúng lúc chàng vươn cánh tay ra để lục tìm, tên bị thương vẫn chưa rời tay gươm liền xỉa luôn một mũi vào ngực chàng và nói:

- Một cho ngươi!

- Và một cho ta! Nhát cuối là nhát tốt nhất! - D' Artagnan hét lên giận dữ, đâm nhát thứ tư xuyên qua bụng hắn cắm mũi gươm xuống đất.

Lần này gã quý tộc nhắm mắt lại và lịm đi. D' Artagnan lục trong cái túi mà chàng thấy gã đút tờ lệnh đi đường vào đấy rồi cầm lấy. Giấy mang tên Bá tước De Wardes.

Rồi đưa mắt nhìn lần cuối con người trẻ tuổi đẹp trai suýt soát hai nhăm tuổi, bỏ mặc hắn nằm đấy không còn cảm giác, có lẽ đã chết, chàng buông một tiếng thở dài, buồn thay cho cái định mệnh trớ trêu xui khiến con người hủy hoại lẫn nhau vì lợi ích của những kẻ xa lạ với mình và thường không biết cả đến việc mình đang tồn tại nữa.

Nhưng chàng bị bứt ra khỏi những ý nghĩ ấy bởi những tiếng gào thét hết sức mình kêu cầu cứu của Lubanh.

Planchet lấy tay chẹn họng hắn, và dùng hết sức siết chặt lại rồi nói:

- Thưa ông, chừng nào tôi còn chẹn thế này, nó sẽ không kêu nữa, tôi tin chắc như vậy. Nhưng tôi chỉ vừa buông tay ra là nó lại rống lên ngay. Tôi nhận ra nó là người Noócmăng, và dân Noócmăng thì bướng lắm.

Thật vậy, bị chẹn đến thế, Lubanh vẫn cố để lọt ra tiếng kêu.

- Đợi đã! - D' Artagnan nói.

Cầm chiếc khăn tay, chàng nhét vào miệng hắn và bảo Planchet:

- Bây giờ, trói nó vào một gốc cây.

Công việc được thực hiện cẩn thận, rồi họ kéo Bá tước De Wardes đến gần tên đầy tớ. Và vì đêm bắt đầu buông, kẻ bị trói và kẻ bị tử thương cả hai đều ở sâu mấy bước ở trong rừng, đương nhiên họ phải ở lại đó đến ngày hôm sau.

- Và bây giờ - D' Artagnan nói - ta đến nhà trấn thủ.

- Nhưng tôi thấy hình như ông cũng bị thương? - Planchet nói.

- Không sao cả, ta hãy lo chuyện gấp nhất đã, rồi hãy nói đến vết thương của ta sau, vả chăng hình như cũng không nguy hiểm lắm đối với ta.

- Và cả hai rảo bước tới dã thự của viên trấn thủ đáng kính.

Người ta thông báo có Bá tước De Wardes.

D' Artagnan được dẫn vào.

- Ông có lệnh do Giáo chủ ký? - Viên trấn thủ hỏi.

- Vâng, thưa ông - D' Artagnan trả lời - lệnh đây.

- Ờ, ờ, thế này là hợp thức và bảo đảm lắm rồi - viên trấn thủ nói.

- Đơn giản thôi - D' Artagnan trả lời - tôi là một trong những người thân tín của Giáo chủ mà.

- Hình như Đức ông muốn ngăn ai đó đến nước Anh.

- Phải, một thằng cha D' Artagnan nào đó, một tên quý tộc người Bearn xuất phát từ Paris cùng với ba tên bạn với ý đồ đến tận London.

- Ông có biết đích thân hắn không? - Viên trấn thủ hỏi.

- Ai cơ?

- Cái tên D' Artagnan ấy.

- Quá rõ.

- Vậy cho tôi biết đặc điểm của hắn đi.

- Không gì dễ hơn.

Và D' Artagnan tả từng nét, từng nét đặc điểm của Wardes.

- Hắn có ai đi cùng không? - Viên trấn thủ hỏi.

- Có, một tên hầu là Lubanh.

- Người ta sẽ canh chừng bọn chúng, và nếu tóm được chúng, Đức ông có thể yên tâm, chúng sẽ được giải về Paris, và được áp giải cẩn thận.

D' Artagnan nói:

- Thưa ông, nếu làm được chuyện đó, ông sẽ có công lớn với Giáo chủ.

- Khi quay về, ông lại gặp lại Giáo chủ chứ, thưa Bá tước?

- Chắc chắn thế rồi.

- Xin Bá tước nói giùm với Giáo chủ, tôi xin hết lòng phụng sự ngài.

- Tôi sẽ không quên đâu.

Vui mừng vì được bảo đảm như thế, viên trấn thủ xác nhận vào tờ giấy thông hành và trao lại cho D' Artagnan.

D' Artagnan không để mất thì giờ vào những việc chúc tụng vô ích, chàng chào viên trấn thủ, cám ơn và ra đi.

Khi đã ra ngoài, chàng và Planchet đi theo đường vòng để tránh khu rừng và vào thành phốbằng một cửa ô khác.

Con thuyền luôn sẵn sàng ra đi, chủ thuyền đang đợi trên boong thuyền. Thấy D' Artagnan ông ta hỏi:

- Thế nào?

- Đây là giấy thông hành đã được xác nhận.

- Còn nhà quý tộc kia?

- Ông ta không đi hôm nay - D' Artagnan nói - nhưng ông yên tâm, tôi sẽ trả tiền đi cho cả hai suất.

- Nếu thế thì đi thôi - chủ thuyền nói.

- Ta đi thôi! - D' Artagnan lắp lại.

Rồi chàng và Planchet nhảy xuống chiếc xuồng nhỏ. Năm phút sau họ đã cặp mạn thuyền.

Ra biển được nửa dặm, D' Artagnan thấy một vùng sáng lóe lên và một tiếng nổ. Thì ra đó là tiếng đại bác báo hiệu đóng cửa hải cảng.

Đã đến lúc chăm sóc vết thương của mình, may sao đúng như D' Artagnan nghĩ, nó không nguy hiểm lắm, mũi gươm gặp phải một xương sườn và trượt dọc theo chiếc xương đó, thêm nữa, áo lót dính ngay vào vết thương và chỉ chảy mất mấy giọt máu.

D' Artagnan mệt lả. Họ trải cho chàng một tấm nệm trên boong thuyền, chàng lăn ra và ngủ thiếp đi.

Sáng sớm hôm sau, chàng thấy mình chỉ cách bờ biển nước Anh ba bốn dặm. Suốt đêm gió yếu nên đi được ít.

Khoảng mười giờ, thuyền thả neo ở cảng Đuvrơ.

- Mười giờ rưỡi, ta đã ở đây rồi!

Nhưng thế chưa đủ, còn phải đến London. Ở nước Anh, bưu trạm phục vụ khá tốt. D' Artagnan và Planchet mỗi người cưỡi một con ngựa nhỏ, một phu trạm chạy trước dẫn đường họ.

Bốn giờ sau, họ đã tới cửa ô kinh thành.

D' Artagnan không quen biết London, không biết một câu tiếng Anh, nhưng chàng viết lên một mẩu giấy cái tên Buckingham và ai ai cùng chỉ dinh Quận công cho chàng.

Quận công đi săn ở Uynxo với nhà Vua.

D' Artagnan hỏi người hầu thân tín của Quận công, thường đi theo ông trong mọi cuộc du hành, nói tiếng Pháp thông thạo.

Chàng bảo anh ta rằng mình đến London vì một việc sinh tử, và anh ta phải nói ngay cho chủ mình tức khắc.

Giọng nói đáng tin của D' Artagnan đã thuyết phục được Patrítxơ. Patrítxơ là tên người thừa hành của Thủ tướng. Anh ta đóng yên cương hai con ngựa, tự đảm nhiệm việc dẫn đường chàng cận vệ trẻ. Còn Planchet, người ta phải đỡ hắn từ trên lưng ngựa xuống, chàng trai đáng thương đã kiệt sức, ngồi cứng đờ như cây chò, không như D' Artagnan vững như thép.

Mọi người đã đến lâu đài, hỏi thăm thì biết nhà Vua và Buckingham đi săn chim ở đầm lầy cách đây hai ba dặm.

Hai người đến nơi chỉ dẫn mất hai mươi phút. Patrítxơ nghe thấy ngay tiếng chủ mình đang gọi chim ưng. Patrítxơ hỏi chàng:

- Tôi phải thông báo ai muốn gặp Huân tước Quận công đây?

- Cứ nói chàng trai trẻ một buổi tối đã kiếm cớ gây sự với ngài ở cầu Mới trước mặt nhà thờ Samaritain là được rồi.

- Lối giới thiệu lạ đời nhỉ!

- Anh sẽ thấy nó gấp mấy lối khác ấy chứ.

Patrítxơ phi ngựa nước đại đến gặp Quận công và thông báo với ông đúng lời lẽ D' Artagnan đã nói là có một sứ giả đang đợi ông.

Buckingham nhận ra D' Artagnan ngay và ngờ rằng có chuyện gì đó xảy ra ở Pháp nên phải cho chàng mang tin đến, ông chỉ kịp hỏi người đưa tin đang ở đâu và từ xa đã nhận ra bộ đồng phục cận vệ, ông cho ngựa phi nước đại đến thẳng chỗ D' Artagnan. Patrítxơ cẩn thận đứng tránh ra.

- Hoàng hậu không gặp phải chuyện chẳng lành nào chứ? - Buckingham hỏi bằng tất cả nỗi nhớ mong và tình yêu của mình.

- Tôi không nghĩ như vậy. Tuy nhiên, tôi tin bà đang gặp một mối nguy lớn mà chỉ có Đức ngài mới có thể giải thoát.

- Ta ư? - Buckingham hỏi - Thế nào nào? Ta sẽ rất sung sướng được có ích cho bà trong một việc nào đó! Nói đi nào! Nói đi?

- Ngài hãy xem bức thư này! - D' Artagnan nói.

- Bức thư này ư! Của ai gửi cho ta?

- Tôi nghĩ đó là của Hoàng hậu.

- Của Hoàng hậu! - Buckingham vừa nói vừa tái nhợt đi khủng khiếp, D' Artagnan tưởng ông ta sắp ngất.

Và ông ta bẻ xi niêm phong.

- Vết rách này là cái gì? - Ông ta vừa nói vừa chỉ cho D' Artagnan một chỗ thư bị xuyên thủng.

- À, à, - D' Artagnan nói - Tôi không để ý cái đó. Đó là vết mũi gươm của Bá tước De Wardes, rất đẹp khi đâm vào ngực tôi đấy!

- Ông bị thương à? - Buckingham vừa bẻ xi vừa hỏi.

- Ồ không sao? Một vết xước thôi.

- Trời, ta vừa đọc cái gì đây? - Công tước kêu lên - Patrítxơ hãy ở lại đây rồi xem nhà Vua ở đâu, đi theo và tâu với Hoàng thượng là ta cúi đầu van xin Ngài hãy tha thứ cho ta vì ta có việc tối quan trọng phải có mặt ở London - còn ông đi theo ta.

- Và cả hai cùng phi nước đại về kinh thành.

BA CHÀNG LÍNH NGỰ LÂM CHƯƠNG 19 Kế hoạch tác chiến

Ba chàng lính ngự lâm
Tác giả: Alexandre Dumas
Dịch giả: Nguyễn Bản
Chương 19 Kế hoạch tác chiến

D' Artagnan đi thẳng đến nhà ông De Treville. Chàng nghĩ rằng chỉ ít phút nữa, Giáo chủ sẽ được tên lạ mặt khốn kiếp kia, hính như là mật vụ của ông ta thông báo, vì vậy chàng nghĩ không thể để chậm trễ một giây phút nào.

Lòng chàng tràn ngập niềm vui. Một cơ hội vừa giành được vinh quang, vừa kiếm được tiền đang hiện ra trước mắt chàng, và còn là sự cổ vũ ban đầu đưa chàng gần lại người phụ nữ chàng ngưỡng mộ. Sự run rủi hầu như ngay từ lần đầu tiên vậy là đã đem lại cho chàng hơn cả chàng dám cầu xin ở Chúa cứu thế.

Ông De Treville đang trong phòng khách với cuộc hội kiến thường lệ của các nhà quý tộc. D' Artagnan đã như người thân trong nhà, đi thẳng đến phòng làm việc của ông và nhờ báo cho ông chàng đang chờ vì một việc quan trọng.

D' Artagnan ở đó được năm phút thì ông De Treville đi vào, thoáng nhìn thấy niềm vui trải mượt trên khuôn mặt chàng ông đại úy tôn kính hiểu ngay rõ ràng có điều gì mới mẻ đã xảy ra.

Suốt dọc đường, D' Artagnan đã tự hỏi liệu chàng có nên thổ lộ với ông De Treville không hay chỉ xin ông cho phép được tự do hành động vì một công việc bí mật. Nhưng vì ông De Treville đã từng quá chu toàn với chàng, ông lại quá tận tụy với nhà Vua và Hoàng hậu, ông rất đỗi căm ghét Giáo chủ nên chàng trai trẻ quyết định nói hết với ông.

- Anh bạn trẻ, anh yêu cầu gặp tôi? - Ông hỏi.

- Vâng, thưa ông và hy vọng xin ông thứ lỗi vì đã quấy rầy ông, khi\ông biết rõ vấn đề là chuyện quan trọng gì.

- Anh nói đi, ta nghe đây.

D' Artagnan hạ giọng nói:

- Chuyện không kém liên quan đến danh dự và có lẽ cả tính mạng của Hoàng hậu.

- Anh nói gì vậy? - Ông De Treville vừa hỏi vừa nhìn xung quanh xem có ai không và đưa mắt nhìn D' Artagnan như muốn hỏi rõ chàng.

- Thưa ông, tôi nói, tình cờ khiến tôi đang làm chủ một bí mật…

- Anh phải giữ kín, ta hy vọng thế, anh bạn trẻ ạ, bằng tính mạng của anh đấy.

- Nhưng tôi lại phải thổ lộ với ông, thưa ông, với chính ông, bởi chỉ có ông mới có thể giúp tôi trong nhiệm vụ mà tôi vừa mới nhận được của Hoàng hậu.

- Cái bí mật ấy là của anh ư?

- Không, thưa ông, của Hoàng hậu.

- Anh được phép của Hoàng hậu?

- Không, thưa ông, trái lại, bởi vì sự tuyệt mật đã được tôi đảm bảo.

- Vậy tại sao anh lại đi phản bội lại ngay trước mặt tôi?

- Bởi vì, tôi đã nói với ông rồi đó, không có ông, tôi chẳng thể làm gì, và tôi sợ rằng ông sẽ từ chối cái ân huệ mà tôi yêu cầu ông, nếu ông không biết rõ tôi yêu cầu ông điều đó với mục đích gì.

- Anh cứ giữ lấy cái bí mật ấy của anh, chàng trai trẻ ạ, và nói cho ta hay anh muốn gì ở ta.

- Tôi muốn ông dành cho tôi một kỳ nghỉ phép mười lăm ngày ở ông des Essarts.

- Khi nào?

- Ngay đêm nay.

- Anh rời Paris?

- Tôi đi làm nhiệm vụ.

- Có thể nói cho tôi ở đâu được không?

- Ở London.

- Liệu có kẻ nào quan tâm đến việc anh không đạt được mục đích không?

- Giáo chủ, tôi tin như vậy, sẽ cho hết mọi thứ trên đời để ngăn tôi thành công.

- Và anh đi một mình?

- Tôi đi một mình.

Trong trường hợp ấy, anh sẽ không qua nổi Bôngđy đâu, chính tôi là người nói với anh như vậy, lời nói của Treville đấy.

- Sao lại thế được?

- Người ta sẽ cho ám sát anh.

- Tôi sẽ chết khi làm nghĩa vụ của mình.

- Nhưng sứ mạng của anh không được làm tròn.

- Đúng vậy - D' Artagnan nói.

- Tin tôi đi - Ông Treville tiếp tục - trong những cuộc phiêu lưu mạo hiểm này, phải có bốn để đến được một.

- Ôi! Thưa ông, sao ông nói đúng thế. Nhưng ông đã biết Athos, Porthos và Aramis, ông thấy liệu tôi có sừ dụng họ được không?

- Không thổ lộ với họ cái bí mật mà chính tôi cũng không muốn biết chứ?

- Chúng tôi đã thề với nhau, một lần cho mọi lần, nhắm mắt tin nhau, hết lòng vì nhau trước mọi thử thách. Vả lại, ông có thể nói với họ rằng ông hoàn toàn tin tưởng ở tôi, và họ sẽ không kém tin tôi hơn ông đâu.

- Tôi có thể cho họ mỗi người một kỳ phép mười lăm ngày, tất cả là thế này: cho Athos, vì vết thương vẫn luôn luôn nhức nhối, để đến vùng suối nóng ở Foócgiơ, cho Porthos và Aramis để đi theo bạn vì không muốn bỏ mặc bạn trong một tình cảnh đau đớn đến như vậy. Gửi cho họ giấy phép sẽ là bằng chứng tôi cho phép cuộc hành trình của họ.

- Xin cám ơn ông, ông thật muôn vàn lần tốt.

- Vậy anh hãy đi tìm họ ngay lúc này đi và tất cả phải được thi hành ngay đêm nay. À, trước hết, hãy viết cho tôi đơn xin ông des Essarts. Có thể anh đã bị một tên do thám theo dõi, và việc anh đến thăm tôi, trong trường hợp Giáo chủ đã biết sẽ được hợp pháp hóa.

D' Artagnan viết đơn xin, và ông De Treville nhận đơn từ tay chàng, đảm bảo trước hai giờ sáng bốn giấy phép sẽ đến đúng địa chỉ các lữ khách.

- Làm ơn gửi giấy phép của tôi đến chỗ Athos - D' Artagnan nói - Tôi sợ rằng trở về nhà tôi sẽ gặp chuyện chẳng lành.

- Anh yên tâm. Vĩnh biệt, chúc thượng lộ bình an! À mà? - Ông De Treville gọi chàng lại.

D' Artagnan rảo bước quay lại.

- Anh có tiền không?

- Ba trăm đồng vàng!

- Tốt lắm, với số tiền ấy có thể đi tận cùng thế giới. Thôi đi đi.

D' Artagnan chào ông De Treville đang chìa tay bắt tay chàng. Chàng siết chặt tay ông với lòng kính trọng xen lẫn sự biết ơn. Từ khi tới Paris, chàng chỉ một mực ca ngợi con người ưu tú ấy con người chàng luôn luôn thấy đáng tôn kính, trung thực và vĩ đại.

Đầu tiên chàng đến thăm Aramis. Từ cái buổi tối tuyệt diệu chàng bám theo bà Bonacieux, chàng chưa trở lại nhà bạn mình.

Còn thêm điều này nữa: Mới thoạt nhìn chàng ngự lâm trẻ ấy và mỗi lần gặp lại, chàng tưởng như nhận thấy một nỗi buồn sâu sắc in trên gương mặt bạn mình.

Tối nay nữa, Aramis vẫn thức, vẻ mặt sầm tối, mơ màng. D' Artagnan hỏi bạn mình mấy câu về nỗi buồn sâu xa ấy.

Aramis phân trần chàng buộc phải viết bằng tiếng Latinh một bài bình luận về chương thứ 18 kinh Thánh Augustin cho tuần sau, khiến chàng phải bận tâm nhiều.

Đôi bạn chuyện trò được một lát thì một đầy tớ của ông De Treville bước vào cầm theo một gói kín có dấu niêm phong.

- Cái gì thế này? - Aramis hỏi.

- Giấy phép ngài yêu cầu - người hầu trả lời.

- Tôi hả, tôi có xin phép nghỉ đâu.

- Im đi và cầm lấy. - D' Artagnan nói - Và anh, anh bạn, đây là nửa đồng vàng thưởng công cho anh, anh về nói với ông Treville là ông Aramis thành thật và rất đỗi cám ơn ông. Thôi về!

Người hầu cúi rạp đất chào và đi ra.

- Thế nghĩa là thế nào? - Aramis hỏi.

- Anh hãy cầm lấy cái cần thiết cho một cuộc hành trình mười lăm ngày và đi theo tôi.

- Nhưng tôi không thể rời Paris lúc này mà không biết… - Aramis dừng lại.

- Không biết bây giờ nàng ra sao, có phải không? - D' Artagnan tiếp tục.

- Ai cơ?

Người đàn bà đã ở đây, người đàn bà có chiếc khăn tay thêu đó.

- Ai bảo cậu có một người đàn bà ở đây? - Aramis cãi, mặt nhợt như người chết.

- Tôi đã trông thấy.

- Và cậu có biết là ai không?

- Tôi ngờ ngợ thôi, ít ra là như vậy.

- Nghe đây - Aramis nói - một khi cậu nắm được bao nhiêu chuyện như vậy, hẳn cậu phải biết người đàn bà ấy bây giờ ra sao?

- Tôi cho là nàng đã trở về Tours.

- Về Tours? Phải, đúng thế, cậu biết nàng rồi. Nhưng làm sao nàng lại trở về Tours mà không nói gì với tôi.

- Bởi nàng sợ bị bắt.

- Làm sao nàng không viết cho tôi?

- Bởi vì nàng sợ làm hại anh.

- D' Artagnan, cậu cứu sống tôi rồi! - Aramis reo lên - Tôi cứ tưởng mình bị khinh bỉ, phản bội. Tôi đã sung sướng biết mấy khi gặp lại nàng! Tôi không thể ngờ rằng nàng đã hy sinh tự dọ của mình vì tôi, tuy nhiên nàng trở lại Paris là vì nguyên cớ gì?

- Vì cái nguyên cớ mà hôm nay chúng ta phải đi sang nước Anh.

- Nhưng nó là gì mới được chứ? - Aramis hỏi.

- Rồi có ngày anh sẽ biết, Aramis ạ, nhưng còn lúc này, tôi sẽ bắt chước tính dè dặt của cháu gái ông tiến sĩ.

Aramis mỉm cười, vì chàng nhớ lại câu chuyện mình đã bịa ra tối hôm đó cho các bạn nghe.

- Thôi được, vậy một khi nàng đã rời Paris, và cậu đã chắc như vậy, D' Artagnan, không có gì ngăn tôi được nữa, tôi sẵn sàng đi theo cậu. Cậu nói chúng ta đi…

- Lúc này hãy đến Athos đã, và nếu anh muốn đến cùng thì nhanh nhanh lên, bởi chúng ta đã mất khá nhiều thời gian rồi.

- À mà, anh báo cho Bazin nữa.

- Bazin đi cùng chúng ta? - Aramis hỏi.

- Có thể. Dẫu sao, lúc này Bazin đi theo chúng ta đến nhà Athos cũng tốt.

Aramis gọi Bazin, và sau khi đã ra lệnh cho y đi theo đến nhà Athos, chàng vơ áo choàng, cầm lấy gươm và ba khẩu súng ngắn, rồi mở đi mở lại ba bốn cái ngăn kéo xem có sót một đồng vàng nào không, chẳng thấy, chàng nói:

- Vậy ta đi thôi.

Sau khi đã chắc chắn việc tìm kiếm tiền còn sót lại chỉ là thừa, Aramis đi theo D' Artagnan, vừa đi vừa tự hỏi làm thế nào mà cái tay tập sự trẻ ở đội cận vệ cũng biết rõ như chàng người phụ nữ đã trọ ở nhà chàng là ai, và còn biết rõ hơn chàng nàng đã ra sao.

Chỉ đến lúc ra khỏi nhà, Aramis mới đặt tay lên cánh tay D' Artagnan, và nhìn thẳng vào mặt bạn và nói:

- Cậu không nói về người đàn bà ấy với ai chứ?

- Không một ai hết.

- Không cả với Athos và Porthos chứ?

- Không hé một nửa lời.

- Khá lắm!

Yên tâm về cái điều quan trọng ấy, Aramis tiếp tục lên đường cùng D' Artagnan, chẳng mấy chốc cả hai đã đến nhà Athos.

Họ thấy Athos đang cầm một giấy phép trong tay và tay kia là bức thư của ông De Treville.

"Athos thân mến của tôi.

Vì sức khỏe của anh tuyệt đối đòi hỏi phải như vậy, tôi rất muốn anh phải nghỉ ngơ mười lăm ngày. Vậy hãy đến vùng suối nóng Foócgiơ hoặc chỗ nào khác hợp với anh, và hãy nhanh chóng bình phục.

Thân ái

Treville"

- Anh Athos ơi, cái giấy phép và bức thư đó có nghĩa là phải đi theo tôi đấy.

- Đến suối nóng Foócgiơ?

- Đấy hoặc chỗ khác.

- Để phục vụ nhà Vua ư?

Nhà Vua hoặc Hoàng hậu, chả phải chúng ta là bầy tôi của hai vị sao?

Đúng lúc ấy thì Porthos vào. Chàng nói:

- Mẹ kiếp! Chuyện kỳ quá đi thôi. Chả hiểu từ bao giờ trong ngự lâm quân, người ta lại cho quân nghỉ phép không cần xin xỏ gì thế này.

D' Artagnan nói:

- Từ khi họ có những người bạn xin hộ họ.

- Chà chà! - Porthos nói - Hình như có chuyện gì mới ở đây chăng?

- Phải, chúng ta ra đi - Aramis nói.

- Đến nước nào? - Porthos hỏi.

- Thật tình, tôi chẳng biết gì lắm - Athos nói - hỏi D' Artagnan ấy.

- Đến London, thưa các vị.

Đến London? - Porthos kêu lên - Và chúng ta sẽ làm gì ở London đây?

- Đó lại là điều tôi không thể nói với các vị được. Các vị phải tin vào tôi thôi.

- Nhưng để đi đến London - Porthos thêm - Cần phải có tiền, mà tôi thì chẳng có một xu nào cả.

- Tôi cũng vậy - Aramis nói.

- Tôi cũng thế - Athos nói.

- Tôi có - D' Artagnan vừa nói vừa rút kho báu từ trong túi mình ra và đặt lên bàn - Trong túi này có ba trăm đồng vàng. Mỗi người hãy cầm lấy, thế là đủ để đi đến London và cho lúc trở về. Vả lại, cứ yên tâm, chúng ta sẽ không đến London tất cả đâu?

- Tại sao thế?

- Bởi vì rất có thể, có một vài người trong chúng ta sẽ ở lại dọc đường.

- Nhưng như vậy phải chăng chúng ta đang tiến hành một chiến dịch?

- Và nguy hiểm nhất, tôi xin báo trước như vậy.

- Ra thế! Porthos nói - Nhưng một khi nhỡ ra chúng ta bị giết chết, ít ra tôi cũng muốn biết tại sao chứ?

- Cậu vội quá đấy! - Athos nói.

- Tuy nhiên tôi đồng ý với Porthos! - Aramis nói.

- Nhà Vua phải chăng có lệ phải trình bày với cái vị? Không, Ngài chỉ nói thẳng ra thế này: "Các vị, người ta đang chiến đấu ở Gátxcônhơ, hay ở Flăngđrơ, hãy lên đường!" và các vị lên đường đến đấy. Tại sao ư? Các vị chẳng áy náy gì đâu.

- D' Artagnan nói đúng - Athos nói - Đây là ba giấy phép của chúng ta do ông De Treville cấp, và đây là ba trăm đồng vàng chẳng biết từ đâu ra. Vậy ta đi thôi, và sẵn sàng chết ở nơi người ta bảo ta đi. Cuộc đời có đáng đặt ra bao nhiêu câu hỏi như vậy không? D' Artagnan, tôi sẵn sàng đi theo cậu.

- Cả tôi nữa - Porthos nói.

- Tôi cũng vậy - Aramis nói - Tôi cũng chẳng buồn bực phải rời khỏi Paris đâu. Tôi đang cần tiêu khiển.

D' Artagnan nói:

- Yên trí, các vị sẽ được tiêu khiển.

- Còn bây giờ, khi nào chúng ta đi đây? - Athos hỏi.

- Ngay lập tức - D' Artagnan trả lời - Không còn một chút nào để mất đâu.

Bốn chàng trai trẻ hô lên gọi những người hầu của mình:

- Ê này, Grimaud, Planchet, Mousqueton, Bazin! Hãy đánh xi những đôi ủng cho chúng ta, và đem ngựa từ dinh quán đến.

Quả thật, mỗi lính ngự lâm đều để ngựa của mình và của người hầu ở tổng dinh như ở doanh trại.

Planchet, Grimaud, Mousqueton, Bazin vội vàng đi ngay.

- Bây giờ, chúng ta phải vạch kế hoạch tác chiến - Porthos nói - Chúng ta đi đâu trước nào?

- Đến Cale - D' Artagnan nói - đó là con đường đi thẳng đến London.

Porthos nói:

- Tôi có ý kiến.

- Nói đi.

- Bốn người đi cùng nhau sẽ bị nghi ngờ. D' Artagnan sẽ hướng dẫn riêng từng người. Tôi đi tiên phong theo đường Bulônhơ để thám thính. Hai giờ sau Athos khởi hành theo đường Amiêng. Aramis sẽ đi theo chúng ta bằng đường Noayông. Còn D' Artagnan, cậu ấy sẽ đi bằng đường nào thì đi, bằng y phục của Planchet, còn Planchet sẽ đi theo chúng ta thành D' Artagnan và với đồng phục quân cận vệ.

- Thưa các vị - Athos nói - tôi thấy mang theo bọn người hầu trong "một việc hệ trọng" như thế này sẽ chẳng hay ho gì. Một bí mật không may có thể bị một nhà quý tộc để lộ. Còn bọn người hầu, hầu như luôn luôn bán rẻ nó.

D' Artagnan nói:

- Tôi thấy kế hoạch của Porthos hình như không thể thực hiện được ở chỗ bản thân tôi cũng không biết chỉ dẫn các anh điều gì. Tôi chỉ là người mang theo một bức thư, có thế thôi. Tôi không có và cũng không thể làm ra ba bản sao bức thư ấy, vì nó đã được niêm phong. Vậy theo ý tôi, ta cứ nên đi thành đoàn. Thư ấy ở đây, trong cái túi này (và chàng chỉ cái túi có bức thư). Nếu tôi bị giết, một trong các anh sẽ giữ lấy và các anh tiếp tục lên đường. Nếu anh ấy bị giết, sẽ đến lượt anh khác, và cứ thế tiếp theo, miễn là một người đến được. Đó là tất cả việc cần làm.

- Hoan hô D' Artagnan! Ý kiến cậu cũng là ý kiến tôi! - Athos nói. Hơn nữa phải trước sau như một, tôi đi nghỉ ở suối nóng, các cậu đi cùng, đáng lẽ ở suối nóng Foócgiơ, tôi lại ra biển nghỉ, tôi được tự do cơ mà. Họ muốn bắt giữ chúng ta, chúng ta sẽ chống trả. Họ xét xử chúng ta, chúng ta cứ một mực không có ý định nào khác ngoài việc trầm mình ngày mấy lần trong nước biển. Bốn người mỗi người một phương thì sẽ rẻ mạt, còn như bốn người thống nhất lại thì thành một đội quân. Chúng ta sẽ trang bị cho bốn tên hầu cả súng ngán, lẫn súng trường. Nếu họ phái một đạo quân tới chống lại chúng ta, chúng ta sẽ giao chiến, và người nào sống sót, như D' Artagnan nói sẽ mang thư đi.

- Nói hay lắm! - Aramít~ reo lên - Anh không hay nói, Athos ạ, nhưng khi anh nói, thì cứ như thánh Jean miệng vàng. Tôi tán thành kế hoạch của Athos. Còn cậu, Porthos?

- Tôi cũng vậy, nếu hợp ý D' Artagnan. D' Artagnan là người mang thư tất nhiên phải là chỉ huy cuộc mạo hiểm, cậu ấy quyết định và chúng ta thi hành.

- Vậy thì tôi quyết định chúng ta chấp nhận kế hoạch của Athos và nửa giờ nữa chúng ta lên đường.

- Chấp nhận! - Ba người ngự lâm đồng thanh hô lên.

- Và mỗi người vươn tay tới cái túi, lấy bẩy nhăm đồng vàng, chuẩn bị hành lý để khởi hành đủng giờ.

BA CHÀNG LÍNH NGỰ LÂM CHƯƠNG 18 Người tình và người chồng

Ba chàng lính ngự lâm
Tác giả: Alexandre Dumas
Dịch giả: Nguyễn Bản
Chương 18 Người tình và người chồng

- Ôi thưa bà! - D' Artagnan vừa bước qua chiếc cửa mà thiếu phụ vừa mở ra cho chàng, vừa nói - cho phép tôi được nói với bà, bà có một Đức ông chồng đáng buồn đấy?

- Vậy ra ông đã nghe hết câu chuyện của chúng tôi? - Bà Bonacieux lo lắng nhìn D' Artagnan và vội hỏi.

- Không sót một câu.

BA CHÀNG LÍNH NGỰ LÂM CHƯƠNG 17 Vợ chồng nhà Bonacieux

Ba chàng lính ngự lâm
Tác giả: Alexandre Dumas
Dịch giả: Nguyễn Bản
Chương 17 Vợ chồng nhà Bonacieux

Đây là lần thứ hai Giáo chủ trở lại vấn đề những nút kim cương với nhà Vua. Louis vì thế không hiểu nổi tại sao ông ta cứ nài nỉ và nghĩ rằng sự khuyến nghị này ắt che giấu một điều bí mật.

Giới thiệu về tinh dầu oải hương

Giới thiệu tinh dầu oải hương

Oải hương có tên khoa học là Lavendula là loại cây bụi xuất xứ tại địa trung hải. Với sắc tím lãng mạn của hoa oải hương với mùi thơm nồng có đặc tính xua đuổi côn trùng, nên hoa oải hương được sử dụng rất rộng rãi. Với tính năng an thần kháng khuẩn và có tính sát trùng mạnh oải hương như một loại thảo dược được dùng thường xuyên trong mùa hè.
Tinh dầu oải hương Lavender nguyên chất được chiết xuất 100% từ hoa oải hương giúp làm lành vết thương vết bỏng rất nhanh chóng, còn cung cấp độ ẩm cho da giúp giảm stress giảm đau đầu nhanh chóng.

Tinh dầu oải hương còn giúp phục hồi làn da lão hóa có tính khử mùi có hương thơm quyến rũ cuốn hút cánh nam giới.
Cách sử dụng:

-       Để chữa bệnh về da bạn nên nhỏ từ 3-4 giọt oải hương kết hợp với những loại dầu nền như dầu dừa, dầu olive… để thoa lên da hoặc cũng có thể nhỏ 5-10 giọt vào bồn nước tắm để ngâm mình trong đó khoảng 10 phút
-       Khi bị đứt tay hay bị bỏng các bạn nhỏ trực tiếp khoảng 2 giọt vào vết thương. Oải hương có tác dụng chữa lành vết thương rất nhanh
-       Bạn cũng có thể dùng tinh dầu oải hương như một loại dầu gió khi bị đau nhức đầu hay chân tay mình mẩy bạn có thể thoa trực tiếp vào những chỗ đau

Chú ý:
-       Không để tinh dầu rớt vào mắt hay những vùng da nhạy cảm cũng như không được uống tinh dầu
-       Không dùng cho phụ nữ mang thai và trẻ nhỏ

Mua tinh dầu oải hương ở hà nội

Mua tinh dầu oải hương ở Hà Nội

Ở bài viết “Tinh dầu oải hương” Siêu thị tinh dầu CMT đã giới thiệu thành phần cách sử dụng công dụng của tinh dầu oải hương. Tuy nhiên lượn qua các diễn đàn phụ nữ hay làm đẹp chăm sóc sức khỏe…mình thấy có rất nhiều các bạn đặt câu hỏi mua tinh dầu oải hương ở đâu là những câu hỏi thường xuyên xuất hiện trên các topic về tinh dầu làm đẹp…Cũng có các bạn bị mất ngủ hay stress cao độ lên hỏi về công dụng của tinh dầu oải hương cũng như địa chỉ bán tinh dầu oải hương tại hà nội..

mua tinh dau oai huong o ha noi

Do có rất nhiều câu hỏi như vậy và không thể trả lời hết được trên các diễn đàn, topic.. nên siêu thị tinh dầu CMT bổ sung thêm một bài viết “Mua tinh dầu oải hương ở Hà Nội” kính mong quý khách lưu ý
Siêu thị tinh dầu CMT cung cấp các loại sản phẩm tinh dầu nguyên chất trên toàn quốc, ship hàng tận nơi của khách hàng với giá cả rất hợp lý. 
 

Mua đồng hồ Tissot ở Hà Nội, TP. HCM

Mua đồng hồ Tissot ở đâu là câu hỏi thường gặp khi bạn đang có nhu cầu mua đồng hồ hãng Tissot ở Hà Nội, TP. HCM mà chưa biết địa chỉ uy tín, tin cậy nào để mua sản phẩm cho mình hoặc người thân. Thân gửi các độc giả của Phụ Kiện Thời Gian, trong năm 2014 là sự bùng nổ mạnh mẽ trong giới trẻ trên thị trường dòng đồng hồ thời trang.

Các shop đồng hồ mở ra triền miên ở Hà Nội, TP. HCM ( Sài Gòn ) hay ở các tỉnh khác, về chất lượng thì người dùng chưa được kiểm chứng. Chính vì vậy sự lo lắng khi người sử dụng bỏ tiền ra và mua sản phẩm phải lo lắng là điều tất nhiên. Nếu nói đến hàng chính hãng thì không nói làm gì, nhưng hàng nhái hàng giả bây giờ thì triền miên. Phụ Kiện Thời Gian là shop đồng hồ nổi tiếng chuyên hàng FAKE 1 tại Hà Nội, TP. HCM, bạn hoàn toàn có thể an tâm nơi chúng tôi bởi chất lượng của sản phẩm tốt, giá rẻ nhất tại Việt Nam. Mỗi sản phẩm đều ghi rõ xuất xứ, bảo hành với thời gian dài. Chúng tôi luôn cam kết lấy uy tín của mình ra đảm bảo mỗi sản phẩm khi đến tay khách hàng. Shop đồng hồ FAKE chúng tôi chuyên cung cấp các mẫu đồng hồ FAKE mang thương hiệu Tissot, Cartier, Omega, Longines đó là các mẫu đồng hồ thời trang mà giới trẻ hiện nay đang cực kỳ yêu thích.

Khi mua sản phẩm Tissot tại Phụ Kiện Thời Gian bạn sẽ được cam kết
- Giao hàng, ship hàng miễn phí trên toàn quốc
- Giá đồng hồ Tissot fake rẻ nhất tại Việt Nam
- Đổi trả hàng trong vòng 7 ngày
- Bảo hành từ 6 – 18 tháng/1 sản phẩm

Xem tham khảo các sản phẩm Tissot tại phukienthoigian.com
Tư vấn mua hàng: 098 2008 102 – 0969 126 500

Mua đồng hồ Tissot nam, nữ tại Hà Nội, TP. HCM giá rẻ

Trong suốt gần 60 năm qua, Tissot đã không ngừng phát triển kĩ thuật để cho ra những mẫu sản phẩm đẹp nhất, thời trang nhất. Có thể Tissot sẽ không phải là thương hiệu lớn nhất trên thế giới nhưng về chất lương và kiểu dáng thời trang thì Tissot lại đang là hiệu đồng hồ bán chạy nhất trên thị trường thế giới. Nếu bạn là một tín đồ của Tissot chắc hẳn đang sở hữu những chiếc đồng hồ thời thượng nhất hiện nay.

Xem thêm: Đồng hồ Tissot nam nữ giá rẻ

BA CHÀNG LÍNH NGỰ LÂM CHƯƠNG 16

Ba chàng lính ngự lâm
Tác giả: Alexandre Dumas
Dịch giả: Nguyễn Bản
Chương 16
Viên chưởng ấn Xécghiê tìm mấy lần vẫn không thấy chuông ở đâu để rung lên, như ngày trước vẫn quen làm

- Không thể nghĩ nổi việc mấy câu nói kia đã tác động lên nét mặt của vua Louis XIII thế nào. Mặt nhà Vua hết đỏ lên rồi lại tái đi và Giáo chủ thấy ngay mình chỉ bằng một đòn đã chiếm lại được địa bàn đã mất.

Nhà Vua hét lên:

BA CHÀNG LÍNH NGỰ LÂM CHƯƠNG 15 Phái quan tòa và phái quân nhân

Ba chàng lính ngự lâm
Tác giả: Alexandre Dumas
Dịch giả: Nguyễn Bản
Chương 15 Phái quan tòa và phái quân nhân

Hôm sau ngày xảy ra những biến cố ấy, Athos vẫn không thấy có mặt, ông De Treville đã được D' Artagnan và Porthos báo cho biết về việc chàng mất tăm.

Còn Aramis thì đã xin nghỉ năm ngày về Ruăng, nghe nói có việc gia đình.

Ông De Treville là người cha của quân lính ông. Phàm đã mang bộ đồng phục ngự lâm quân trên người thì dù nổi tiếng hoặc vô danh nhất cũng chắc chắn được ông giúp đỡ, phù trợ như thể chính em ông.

Vậy nên ông đi ngay đến viên trợ úy hình sự. Viên sĩ quan chỉ huy đồn Hồng thập tự được gọi đến và những tin tức kế tiếp nhau cho biết Athos lúc này đang ở đồn Pho-lêvếch.

Athos đã trải qua tất cả những thử thách mà Bonacieux phải chịu.

Chúng ta đã dự cảnh đối chất giữa hai người bị giam. Cho tới lúc đó Athos vẫn không nói gì vì sợ D' Artagnan chưa đủ thì giờ cần có, và bấy giờ Athos mới khai mình là Athos không phải D' Artagnan.

Chàng nói thêm chàng không quen biết cả ông lẫn bà Bonacieux, chẳng bao giờ nói chuyện với họ. Lúc mười giờ chàng đến là để thăm D' Artagnan, bạn chàng, nhưng trước lúc đó, chàng vẫn ở nhà ông Treville và ăn trưa ở đấy, chàng nói thêm, hai mươi nhân chứng có thể xác nhận điều ấy, và kể ra tên tuổi nhiều nhà quý tộc nổi tiếng, trong số họ có Công tước De la Trênui.

Viên đồn trưởng thứ hai cũng ngơ ngác như viên thứ nhất trước lời khai đơn giản và quả quyết của người ngự lâm quân này. Vì hắn vẫn có ý định dựa vào người ngự lâm này để nhân đó mở trận phục thù mà phái quan tòa mong thắng bọn quân nhân biết mấy. Nhưng cái tên ông De Treville và Công tước De La Trênui đáng để y suy nghĩ.

Athos cũng được chuyển đến chỗ Giáo chủ, nhưng rủi thay, Giáo chủ lại ở chỗ Nhà Vua tại điện Louvre.

Cũng chính lúc đó, ông De Treville ra khỏi chỗ viên trợ úy hình sự và viên đội trưởng của Pholêvếch, mà vẫn không thấy Athos, liền đi tới chỗ Hoàng thượng.

Ai cũng biết những việc phòng bị của Nhà Vua chống lại Hoàng hậu, nhưng việc phòng bị được Giáo chủ khéo léo điều hành, mà về mặt cơ mưu, lại phòng ngừa đàn bà hơn đàn ông nhiều. Một trong những nguyên nhân lớn nhất của sự đề phòng này là tình bạn giữa Anne d' Autriche với bà De Chevreuse. Hai người đàn bà này khiến Đức ông lo lắng hơn cả những cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha, những việc xích mích với Anh quốc và những bê bối về tài chính. Trong con mắt và trong thâm tâm ông, bà De Chevreuse phục vụ Hoàng hậu không những trong những âm mưu chính trị mà còn cả trong những âm mưu tình ái, điều làm ông còn quay cuồng điên đảo hơn nhiều.

Mới nghe Giáo chủ tâu lại, bà De Chevreuse bị lưu đày ở thành Tours và tưởng bà vẫn ở đó, nhưng bà đã đến Paris, đánh lạc hướng cảnh sát, lưu lại đây năm ngày, nhà Vua đã đùng đùng nổi giận. Tính khí thất thường, không chung thủy, Nhà Vua lại muốn được gọi là Louis chí công và Louis trong trắng. Hậu thế khó hiểu nổi tính cách ấy, mà sử sách lại chỉ giải thích bằng các sự kiện chứ không bao giờ bằng lý giải.

Nhưng khi Giáo chủ thêm rằng không những bà De Chevreuse đã đến Paris, mà Hoàng hậu còn nối lại với bà ta một mối quan hệ bí mật mà thời kỳ đó người ta gọi là bè đảng, và khi ông khẳng định chính ông, Giáo chủ, sắp gỡ ra nước manh mối đen tối nhất của âm mưu đó, lúc đang bắt quả tang, mật sứ của Hoàng hậu bên cạnh người đàn bà bị lưu đày, với đầy đủ chứng cứ thì một tên ngự lâm quân đã dám bạo hành chặn đứng việc thi hành công lý, vung gươm nhẩy bổ vào những con người trung thực của luật pháp được ủy nhiệm cứu xét vô tư toàn bộ vụ việc này để tâu lên đức Vua. Louis XIII nghe vậy không kiềm chế được nữa, ông bước một bước về phía phòng của Hoàng hậu, mặt tái đi vì phẫn nộ, không nói ra được thành lời mà khi nó bùng nổ sẽ dẫn Nhà Vua đến một sự tàn bạo lạnh lùng nhất.

Và tuy vậy, trong mọi chuyện đó, Giáo chủ còn chưa động một lời về Công tước De Buckingham.

Đang lúc đó thì ông De Treville đi vào, lạnh lùng, lễ phép, quần áo chỉnh tề.

Sự hiện diện của Giáo chủ, và nét mặt thất sắc của Nhà Vua, cảnh báo điều gì vừa mới xảy ra, Nhưng ông De Treville tự cảm thấy vững tâm như Xăm xơn trước bọn Philistin(2).

Louis XIII đã đặt tay lên núm cửa, nghe thấy tiếng ông De Treville đi vào, lại quay lại. Nhà Vua không biết che giấu những xúc cảm giận dữ khi nó đã dâng lên tới mức nào đó, liền nói ngay:

- Ông đến thật đúng lúc, ông Treville ạ, ta vừa được biết khối chuyện hay ho về lũ ngự lâm quân của ông.

- Và thần - Ông De Treville lạnh lùng đáp lại - thần cũng có khối chuyện hay ho để tâu lên Hoàng thượng về bọn quan tòa của Hoàng thượng.

- Ông nói cái gì vậy? - Nhà Vua ngạo nghễ nói.

Ông De Treville tiếp tục vẫn bằng giọng lạnh lùng:

- Thần có vinh dự được tâu với Hoàng thượng là cả bè đảng công tố viên, đồn trưởng và nhân viên cảnh sát, toàn những người đáng kính nhưng hình như lại rất gay gắt đối với giới quân nhân, tự cho phép mình vào nhà bắt bớ, điệu đi công khai trên đường phố rồi tống vào đồn Pholêvếch một ngự lâm quân của thần, đúng hơn là của Hoàng thượng, một ngự lâm quân đạo đức miễn chê, danh tiếng vang lừng, theo một lệnh bắt mà họ từ chối không cho thần biết, người bị bắt đó chính là Athos, người mà Hoàng thượng đã từng ưu ái.

- Athos ư? - Nhà Vua nói như thể một cái máy - Ừ, thật ra, ta có quen biết cái tên đó.

- Xin Hoàng thượng nhớ cho - Ông De Treville nói - Athos là người ngự lâm quân trong trận đấu kiếm bất đắc dĩ mà Ngài đã biết đấy, chẳng may đã làm ông De Cahuxắc bị trọng thương.

Ông De Treville chuyển sang nói với Giáo chủ:

- Thưa Đức ông, nhân tiện, xin Đức ông cho biết ông Cahuxắc đã hoàn toàn bình phục, phải không ạ?

- Cám ơn! - Giáo chủ mím môi giận dữ nói.

Ông De Treville nói tiếp:

- Hôm ấy, ông Athos đến thăm một người bạn lúc đó lại không có nhà, đó là một chàng trai người Bearn, đang là lính tập sự cận vệ của Hoàng thượng, trong đại đội ông des Essarts, nhưng ông Athos vừa mới đặt chân vào nhà bạn, vớ lấy cuốn sách chờ bạn, thì một đám những sai nha, cảnh sát lẫn lộn cùng nhau kéo đến vây nhà, phá tung cửa giả…

Giáo chủ ra hiệu cho Nhà Vua ý nói: "Chính là để làm cái công việc mà thần đã nói với Hoàng thượng".

- Chúng ta đã biết cả rồi - Nhà Vua đáp - bởi tất cả những việc đó được làm để phục vụ chúng ta.

- Thế là, - ông Treville nói - Thế là để phục vụ Hoàng thượng, người ta đã giữ mất của thần một ngự lâm quân vô tội, người ta kè kè hai bên hai tên gác như đối với một tên gian phi, và điệu đi giữa đám dân đen hỗn láo con người hào hoa phong nhã đã mười lần đổ máu đề phục vụ Hoàng thượng, và sẵn sàng đổ máu nữa.

- Chà! - Nhà Vua nao núng nói - mọi việc lại đến thế kia ư?

Giáo chủ với vẻ mặt tỉnh bơ nói:

- Ông De Treville lại không nói rằng gã ngự lâm quân vô tội ấy, rằng con người hào hoa ấy, một giờ trước đó đã vung gươm đánh bốn điều tra viên do tôi phái đến để điều tra một việc tối quan trọng.

Ông De Treville la lên với tính ngay thẳng hết sức Gátxcông và sự thô bạo rất lính tráng của mình:

- Đức ông có dám chứng minh điều đó không, bởi một giờ trước đó, ông Athos, người mà tôi sẽ tiến cử lên Hoàng thượng, là một người có phẩm chất cao quý, sau khi dùng bữa trưa tại nhà tôi, đã cho tôi vinh dự trò chuyện với Công tước De la Trênui và Bá tước De Saluy cũng có mặt ở đấy.

Nhà Vua nhìn Giáo chủ. Đáp lại câu hỏi ngầm của Hoàng thượng, Giáo chủ lớn tiếng nói:

- Có biên bản hẳn hoi đây, và những người bị ngược đãi đã lập tờ biên bản sau đây mà thần có vinh dự tâu lên Hoàng thượng.

Ông De Treville kiêu hãnh đáp lại:

- Biên bản của phái quan tòa có giá trị bằng lời thề danh dự của giới quân nhân không?

- Thôi nào, thôi nào, Treville, ông im đi - Nhà Vua nói.

- Nếu Đức ông có chút nghi ngờ nào chống lại một trong số ngự lâm quân của tôi - Ông Treville nói - công lý của Giáo chủ đã quá quen thuộc khiến chính tôi, tôi yêu cầu mở một cuộc điều tra.

Giáo chủ vẫn trơ ra tiếp tục:

- Trong ngôi nhà mà công lý đã bị tấn công, ở đó tôi tin có một người Bearn, bạn của tay ngự lâm kia thuê.

- Đức ông muốn nói về ông D' Artagnan?

- Tôi muốn nói đến một chàng trai trẻ được ông che chở, ông De Treville ạ.

- Vâng, thưa Đức ông, vẫn là con người ấy.

- Thế ông không ngờ con người trẻ tuổi ấy đã có những lời khuyên láo lếu…

- Khuyên ông Athos, một người gấp đôi tuổi anh ta ư? - Ông De Treville ngắt lời - Không, thưa Đức ông. Vả lại, ông D' Artagnan đã ở nhà tôi tối hôm đó.

- Thế kia ư? - Giáo chủ nói - Vậy ra tất cả mọi người tối ấy đều ở nhà ông?

Ông Treville giận tím mặt nói:

- Đức ông nghi ngờ lời nói của tôi ư?

- Không, lạy Chúa chứng giám? - Giáo chủ nói - nhưng chỉ hỏi ông anh ta ở nhà ông lúc mấy giờ?

- Ồ, chuyện đó, tôi có thể nói thẳng thừng ra với Đức ông, bởi khi anh ta vào, tôi nhìn đồng hồ và lúc đó là chín giờ rưỡi, mặc dầu tôi tưởng là muộn hơn thế.

- Và vào lúc mấy giờ anh ta ra khỏi nhà ông?

- Mười giờ rưỡi, một tiếng đồng hồ sau biến cố đó.

Không một chút nghi ngờ lòng trung thực của ông De Treville, Giáo chủ cảm thấy chiến thắng đã tuột khỏi tay mình, ông nói:

- Nhưng rốt cuộc, Athos đã bị giữ trong ngôi nhà ở phố Phu đào huyệt.

- Thế một người bạn bị cấm đến thăm bạn mình sao? Cấm một ngự lâm quân của tôi kết bạn với một lính cận vệ ở đại đội ông des Essarts ư?

- Có đấy! Khi một ngôi nhà mà anh ta tới kết bạn với người bạn kia bị tình nghi.

- Chính vì ngôi nhà đó bị tình nghi, Treville ạ! - Nhà Vua nói - có thể ông không biết chăng?

- Quả nhiên, tâu Bệ hạ, thần không biết. Thôi thì nó có thể bị tình nghi ở chỗ nào cũng được, nhưng lại bị tình nghi ở cái phần ông D' Artagnan ở thì thần không công nhận bởi vì thần có thể khẳng định với Bệ hạ rằng, nếu như thần tin ở điều ông ta nói thì không có ai tận trung với Bệ hạ bằng ông ta, không có ai ngưỡng mộ Giáo chủ sâu sắc hơn ông ta.

Nhà Vua liếc nhìn Giáo chủ đang đỏ mặt lên, tức tối rồi hỏi:

- Có phải cái gã Đáctanháng một hôm đã đâm bị thương Jussac trong cuộc chạm trán khốn khổ ở gần Tu viện Cácmơ tháo giầy không?

- Và ngày hôm sau, Bécnaju nữa. Vâng, tâu Bệ hạ, đúng thế ạ, Bệ hạ nhớ tốt lắm ạ.

- Vậy bây giờ giải quyết thế nào nào? - Nhà Vua hỏi.

- Việc đó liên quan đến Bệ hạ hơn là đến thần. - Giáo chủ nói - Thần sẽ khẳng định là phạm tội.

- Còn tôi, tôi phủ nhận - Treville nói - Mà Hoàng thượng có các thẩm phán, và các thẩm phán của người sẽ quyết định.

- Phải đấy - Nhà Vua nói - hãy di lý sang các thẩm phán. Công việc của họ là xét xử và họ sẽ xét xử.

- Có điều Treville lắp lại - thật rất đáng buồn trong cái thời buổi khốn khổ mà chúng ta đang sống này, một cuộc sống trong sạch nhất, một đức hạnh không thể chối cãi được nhất vẫn không tránh được cho một con người khỏi bị nhục mạ và bị ngược đãi. Vì vậy, quân đội sẽ không mấy hài lòng khi cứ phải đương đầu với những đối xử nghiệt ngã vì những công việc của cảnh sát.

Câu nói có vẻ không thận trọng, nhưng ông De Treville đã tung ra có chủ định. Ông muốn nổ tung bởi chỉ có thế thuốc nổ mới bén lửa và lửa sẽ làm sáng tỏ mọi việc.

- Những việc của cảnh sát ư? - Nhà Vua hét lên, nêu lại lời của ông De Treville - Những việc của cảnh sát? Ông biết gì về chuyện này? Những việc của cảnh sát! Hãy lo chuyện bọn ngự lâm quân của ông ấy, và đừng làm ta đau đầu nữa. Nghe ông nói thì hình như nếu không may người ta bắt giữ một ngự lâm quân, nước Pháp sẽ lâm nguy. Hừm, om sòm lên vì một lính ngự lâm. Ta sẽ cho bắt mười tên, một trăm, mẹ kiếp, tất cả đại đội! Vì ta chẳng muốn ai hé miệng nửa lời.

- Trong lúc họ bị Hoàng thượng tình nghi - Ông Treville - ngự lâm quân đều phạm tội hết, như vậy xin Hoàng thượng xem xét cho thần xin trao lại thanh gươm, bởi vì sau khi đã cáo buộc binh lính của thần, thần tin chắc, Giáo chủ cuối cùng sẽ buộc tội cả thần nữa. Như thế, thà rằng thần xin nộp mình như là một tù nhân cùng với ông Athos đã bị bắt rồi, và ông D' Artagnan chắc chắn cũng sắp bị bắt.

- Cái đồ Gátxcông cứng đầu, có thôi đi không? - Nhà Vua nói.

- Tâu - Treville không hạ giọng trả lời - xin Hoàng thượng trả lại người ngự lâm quân của thần cho thần, hoặc ông ta phải được xét xử?

- Người ta sẽ xét xử hắn - Giáo chủ nói.

- Thế thì càng tốt! Vì trong trường hợp ấy thần xin Hoàng thượng cho phép bào chữa cho ông ta.

Nhà Vua sợ chuyện vỡ ra, nên bảo Giáo chủ.

- Nếu Đức ông không có những động cơ cá nhân…

Giáo chủ thấy nhà Vua có ý muốn giải quyết thế nào, liền đi đến trước mặt nhà Vua. Ông nói:

- Xin Hoàng thượng tha lỗi, nhưng lúc nào Hoàng thượng thấy ở thần một phán quan thiên kiến, thì thần xin rút lui.

- Thôi được - Nhà Vua nói - Treville, ông thề với ta, trước cha ta rằng Athos đã ở nhà ông trong lúc xảy ra sự cố, và không hề dính dáng gì vào đấy chứ?

- Trước tiên đế vinh quang và trước Hoàng thượng là những người thần yêu và sùng kính nhất trên đời, thần xin thề như vậy!

- Tâu Hoàng thượng, xin Ngài hãy suy nghĩ - Giáo chủ nói - Nếu chúng ta thả tên tù nhân ra như thế, sẽ không thể biết được sự thật nữa.

Ông De Treville nói:

- Ông Athos vẫn luôn ở đó, sẵn sàng trả lời để làm đẹp lòng các vị phán quan thẩm vấn ông ta. Ông ta sẽ không đào tẩu đâu, thưa Giáo chủ, xin ông cứ yên tâm, tôi, chính tôi xin bảo lãnh cho ông ấy.

Nhà Vua nói:

- Thật ra, hắn sẽ không đào tẩu mất đâu, lúc nào chả tìm được ra hắn, như ông Treville nói đấy.

Rồi hạ giọng, nhìn Giáo chủ, bằng giọng cầu khẩn, nhà Vua nói tiếp:

- Ta cho họ được an toàn, thế mới là chính trị.

Thứ chính trị ấy của nhà Vua khiến Giáo chủ mỉm cười, ông ta nói:

- Xin Hoàng thượng cứ ra lệnh. Hoàng thượng có quyền ân xá mà!

Ông De Treville vẫn còn chưa chịu:

- Quyền ân xá chỉ áp dụng với những kẻ phạm tội. Còn người lính ngự lâm của thần vô tội. Vậy đây không phải là Hoàng thượng sắp làm việc ân xá mà là lập lại công bằng.

- Thế ông ta vẫn ở Pholêvếch à? - Nhà Vua hỏi.

- Vâng, tâu Hoàng thượng, mà lại bí mật, trong hầm tối như một kẻ phạm trọng tội.

- Quỷ thật! Quỷ thật? - Nhà Vua lẩm bẩm - Phải làm thế nào đây?

Giáo chủ nói:

- Ký lệnh thả tự do. Thế là xong chuyện. Thần cũng tin, như Hoàng thượng, việc ông De Treville xin bảo lãnh thế là quá đủ.

Treville kính cẩn nghiêng mình đáo lễ với một niềm vui không phải không pha lẫn lo sợ. Ông thích Giáo chủ khăng khăng chống lại hơn là sự dễ dãi bất ngờ ấy.

Nhà Vua ký lệnh phóng thích. Ông Treville mang đi không chút chậm trễ.

Đúng lúc ông sắp đi ra, Giáo chủ mỉm cười thân ái với ông và bảo Nhà Vua:

- Một sự hài hòa tuyệt vời được duy trì giữa các chỉ huy và binh lính, trong ngự lâm quân của Hoàng thượng. Thật là thuận lợi cho công việc và rất vinh dự cho tất cả.

Ông De Treville tự nhủ: "Lão ta sẽ chơi lại trò đểu ngay thôi. Chẳng bao giờ biết được cái gì sẽ xảy ra với con người như thế. Nhưng thôi mau lên, bởi nhà Vua có thể đổi ý ngay đấy, và xét cho cùng tống giam lại một con người vào ngục Bastille hay Pholêvếch khó hơn cứ giữ nguyên không thả".

Ông De Treville bước vào đồn Pholêvếch một cách đắc thắng giải thoát người lính ngự lâm vẫn còn nguyên vẻ thờ ơ bình thản.

Rồi, lần đầu tiên gặp lại D' Artagnan, ông nói với chàng:

- Anh trốn cừ thật đấy? Đây là trả giá nhát gươm anh đâm Jussac đấy. Vẫn còn một nhát với Bécnaju.

Rốt cuộc, ông De Treville có lý khi không tin Giáo chủ và khi nghĩ mọi chuyện còn chưa kết thúc, bởi vì đại úy ngự lâm quân vừa khép cửa đi ra, Đức ông đã nói với Nhà Vua:

- Bây giờ thì chỉ có hai người chúng ta, chúng ta sẽ nói chuyện nghiêm túc, nếu Hoàng thượng vui lòng. Tâu Hoàng thượng, ông De Buckingham đã ở Paris được năm ngày nay và tận sáng nay mới đi.

Chú thích:

(1) Gens de robe et gens d'épée - Bản tiếng Anh dịch là: Civilians and soldiers: nghĩa là phái dân sự và phái quân nhân. Trong tiếng Pháp: Noblesse de robe: Quý tộc cung đình. Noblesse dépée: quý tộc kiếm cung - De robe có nghĩa làm nghề pháp lý, nên chúng tôi tạm dịch Gens de robe = pháp quan.

(2) Xăm xơn, thẩm phán của dân Hêbrơ, có thể dùng chùy đập chết một lúc hàng nghìn bọn Philistin, sức khỏe nằm ngay trong bộ tóc, yêu Đalila, bị cô gái điếm này phản bội cắt mất bộ tóc ấy và trao nộp Xăm Xơn cho bọn Philistin. Trong một cuộc lễ tôn giáo ở Đền thờ Đagông, tại chỗ người Philistin. Ông đã lật đổ những cột đền và tự chôn vùi mình.

BA CHÀNG LÍNH NGỰ LÂM CHƯƠNG 14 Con người ở Măng

Ba chàng lính ngự lâm
Tác giả: Alexandre Dumas
Dịch giả: Nguyễn Bản
Chương 14 Con người ở Măng

Cái đám đông tụ tập đó không phải để chờ xem một người sắp bị treo cổ, mà xem một kẻ thắt cổ. Xe dừng lại một lát rồi tiếp tục lăn bánh, đi qua đám đông, đi vào phố Thánh Ônôrê, rẽ sang phố Lũ trẻ ngoan và dừng lại trước một cái cửa thấp.

Cửa mở hai lính gác dìu Bonacieux, có viên cai đỡ rồi đẩy ông vào một lối đi, lôi ông trèo lên một cầu thang và để ông trong một phòng chờ.

Tất cả những động tác đó được ông thực hiện như một cái máy.

Ông đi như đi trong mơ, như mọi vật như nhìn qua sương mù, tai ông tiếp nhận các âm thanh mà không hiểu là gì. Nếu người ta hành quyết ông lúc đó chắc ông cũng chẳng làm nổi một cử chỉ nào phản vệ, chắc cũng chẳng thốt ra một tiếng kêu để cầu xin lòng thương.

- Ông ngồi nguyên như thế trên một chiếc ghế dài, tựa lưng vào tường, hai tay thõng xuống, đúng chỗ mấy tên gác đã đặt ông xuống.

- Tuy nhiên vì nhìn quanh mình, ông chẳng thấy vật gì đáng sợ, vì chẳng có gì chỉ ra ông đang gặp nguy hiểm thật sự, vì chiếc ghế dài đệm lót tươm tất, tường được bọc loại da đẹp Coócđu, những tấm rèm Đamát của Syri màu đỏ được ghim giữ bằng những móc vàng bồng bềnh trước cửa sổ, dần dần ông hiếu ra chẳng qua là mình quá sợ và ông đảo đầu mình cho thư thái.

Chẳng thấy ai phản đối, ông đánh bạo hơn một chút, liều đưa một chân lên, rồi nốt chân kia. Cuối cùng, chống hai tay, ông vươn lên khỏi ghế rồi đứng thẳng dậy.

- Đúng lúc ấy, một viên sĩ quan mặt mày dễ chịu, vén mở rèm cửa, tiếp tục trao đổi thêm vài lời với người đang ở phòng bên, rồi quay lại phía người tù. Ông ta nói:

- Chính ông có tên là Bonacieux?

- Vâng, thưa ông sĩ quan - Ông hàng xén sợ hết hồn ấp úng - xin được hầu ông.

- Vào đi!

Viên sĩ quan tránh ra cho ông hàng xén đi qua. Ông này nhất mực tuân theo đi vào căn phòng hình như người ta đang đợi ông.

Đó là một căn phòng lớn, tường treo đầy binh khí tấn công và phòng thủ, khép kín và ngột ngạt, mới cuối tháng chín mà bên trong đã đốt lò sưởi. Một chiếc bàn vuông kê ở giữa phòng, trên đầy sách và giấy tờ, một tấm bản đồ lớn của thành phố La Rochelle đã được mở sẵn.

Đứng trước lò sưởi là một người đàn ông tầm vóc trung bình, vẻ mặt kiêu hãnh, mắt sắc, trán rộng, bộ mặt choắt như dài thêm ra vì bộ râu chòm, phía trên là đôi ria mép vểnh lên cho dù con người đó mới khoảng ba sáu ba bảy tuổi, tóc, ria và râu chòm đã hoa râm. Con người đó, không đeo gươm, vẫn đầy đủ dáng dấp con nhà chinh chiến, và đôi giầy da trâu còn phủ nhẹ lớp bụi chỉ rõ ông ta trên lưng ngựa cả ngày.

Con người đó chính là Armand Jean Duplessis - Giáo chủ Richelieu, không phải như người ta giới thiệu với chúng ta, còng như một ông già, đau khổ như một kẻ từ vì đạo, thân hình tiều tụy, nói không ra hơi, vùi mình trong một chiếc ghế bành lớn như trong một nấm mồ đào trước, chỉ còn sống bằng sức mạnh thiên tài của mình và chỉ còn duy trì nổi cuộc đấu tranh chống lại châu Âu bằng việc áp dụng bất di bất dịch tư tưởng của ông.

Nhưng con người ông thực sự vào thời kỳ đó là như thế này, một kỵ sĩ thiện nghệ và phong tình, có thể đã suy yếu nhưng được nâng đỡ bởi một sức mạnh tinh thần tạo nên ở ông một trong những con người phi thường nhất đã từng tồn tại. Sau khi ủng hộ Quận công De Nevơ ở công quốc Măngtu, sau khi chiếm Nimơ, Cátxtrơ và Uyzet, cuối cùng ông đang chuẩn bị đuổi quân Anh khỏi dảo Rê và bao vây La Rochelle.

Thoạt nhìn, chẳng có gì chứng tỏ đây chính là Giáo chủ và những ai chưa từng biết mặt ông khó có thể đoán ra ai là người đang ở trước mặt mình.

Ông chủ tạp hóa tội nghiệp cứ đứng ngây ra ở cửa, trong khi đôi mắt của con người vừa miêu tả đó, nhìn xoáy vào ông và như thể muốn lọt sâu vào tận quá khứ của ông. Sau một phút yên lặng. Giáo chủ hỏi:

- Đây là cái ông Bonacieux ấy ư?

Viên sĩ quan trả lời:

- Vâng, thưa Đức ông.

- Tốt lắm, đưa cho ta những giấy tờ ấy rồi mặc chúng ta.

Viên sĩ quan lấy trên bàn tập giấy tờ đã chỉ, đưa lại cho Giáo chủ, cúi rạp mình xuống đất rồi đi ra.

- Ông Bonacieux nhận ra những giấy tờ ấy là biên bản thẩm vấn ông ở ngục Bastille. Thỉnh thoảng người đứng ở lò sưởi lại ngước mắt lên khỏi những ghi chép và như hai con dao găm thọc sâu vào trong tim ông hàng xén.

Đọc khoảng mươi phút và mươi phút quan sát, Giáo chủ quyết định vào việc. Ông lẩm bẩm: "Cái thớ kia thì âm mưu cái gì nhưng mặc kệ, cứ phải xem xem", rồi chậm rãi nói:

- Ông bị buộc tội đại phản nghịch.

- Thưa Đức ông, đấy, người ta cứ bảo tôi thế đấy - Bonacieux kêu lên và cũng gọi theo viên sĩ quan bằng danh hiệu Đức ông - nhưng tôi xin thề với Đức ông, tôi chẳng biết gì cả.

Giáo chủ cố nén một nụ cười.

- Ông đã âm mưu cùng với vợ ông, với phu nhân De Chevreuse và với Huân tước Quận công De Buckingham.

- Thưa Đức ông - Ông hàng xén trả lời - quả là tôi có nghe thấy vợ tôi nói ra những tên ấy.

- Và trong trường hợp nào?

- Nó nói rằng Giáo chủ Richelieu đã dụ Quận công De Buckingham đến Paris để làm hại ông ta và với cả Hoàng hậu.

- Nó nói như thế? - Giáo chủ nói to dữ dội.

- Vâng, thưa Đức ông, nhưng tôi, tôi bảo rằng nó nghĩ như vậy là tầm bậy, rằng Giáo chủ chí tôn không thể…

- Câm miệng đi, ông là đồ súc sinh.

- Thưa Đức ông, nhưng đúng là vợ tôi đã trả lời tôi như thế.

- Ông có biết ai bắt cóc vợ ông không?

- Không, thưa Đức ông.

- Tuy nhiên ông có những nghi ngờ chứ?

- Vâng, thưa Đức ông, nhưng những nghi ngờ ấy có vẻ làm phật ý ông đồn trưởng, và tôi không còn nghi ngờ nữa.

- Vợ ông đã trốn thoát, ông biết chứ?

- Không, thưa Đức ông, tôi chỉ biết điều đó khi đã bị tống vào tù, và cũng là do ông đồn trưởng, một người dễ mến cho biết thôi ạ.

Giáo chủ cố nén nụ cười thứ hai.

- Vậy là ông không biết vợ ông ra sao từ khi trốn thoát?

- Tuyệt đối không, thưa Đức ông, nhưng chắc nó đã trở lại điện Louvre. Lúc một giờ sáng, nó vẫn còn chưa về đó.

- Lạy Chúa! Vậy bây giờ nó ra sao rồi?

- Cứ bình tĩnh, rồi sẽ biết thôi, người ta không giấu gì Giáo chủ cả, Giáo chủ biết tất.

- Thưa Đức ông, trong trường hợp ấy, liệu Đức ông có tin là Giáo chủ sẽ bằng lòng nói cho tôi biết vợ tôi ra sao không?

- Có thể, nhưng trước hết ông cần phải thú nhận tất cả những gì ông biết liên quan đến những mối liên hệ của vợ ông với bà De Chevreuse đã.

- Nhưng thưa Đức ông, tôi chẳng biết gì cả, tôi chẳng bao giờ gặp bà ta cả.

Trước đây khi ông đi đón vợ ông ở Louvre, vợ ông có về thẳng nhà không?

- Hầu như không bao giờ, nó có việc buôn bán với dân hàng vải và tôi đưa nó đến chỗ họ.

- Và có bao nhiêu dân buôn vải?

- Hai, thưa Đức ông.

- Họ cư trú ở đâu?

- Một người ở phố Vôgira, người kia ở phố Đàn Thụ cầm.

- Ông có vào nhà họ cùng với vợ ông không?

- Không bao giờ, thưa Đức ông, tôi đợi ở ngoài cửa.

- Thế vợ ông mượn cớ gì với ông để vào đó một mình?

- Nó chẳng vin cớ gì cả. Nó bảo tôi đợi và tôi đợi thôi.

- Ông là một ông chồng dễ tính đấy, ông Bonacieux thân mến ạ! - Giáo chủ nói.

Ông hàng xén tự nhủ: "Đức ông gọi mình bằng ông bạn thân mến. Mẹ kiếp! Mọi việc khá rồi!".

- Ông có nhận ra cửa các nhà ấy không?

- Có chứ.

- Ông biết số nhà chứ?

- Vâng.

- Số bao nhiêu?

- Số 25 ở phố Vôgira, số 75 ở phố Đàn Thụ cầm.

- Tốt lắm - Giáo chủ nói.

Vừa nói, ông vừa cầm một chuông nhỏ bằng bạc và rung chuông. Viên sĩ quan vào và nói nhỏ:

- Đi tìm Rochefort cho ta, bảo đến ngay tức khắc, nếu ông ta đã trở về.

- Bá tước ở ngoài kia - viên sĩ quan nói - Ông ấy yêu cầu được thưa chuyện ngay với Đức ông tối thượng.

- Vậy bảo ông ấy vào ngay đi? - Richelieu vội vã nói.

Viên sĩ quan lao vụt ra ngoài, như mọi người hầu cận thường nhanh nhảu như vậy để tuân lệnh Giáo chủ.

"Với Đức ông tối thượng ư!" - Ông Bonacieux trợn tròn mắt lẩm bẩm.

Viên sĩ quan biến đi chưa được năm giây, cửa đã mở, và một nhân vật mới bước vào.

- Chính hắn? - Bonacieux kêu lên.

- Hắn nào? - Giáo chủ hỏi.

- Kẻ đã bắt cóc vợ tôi.

Giáo chủ rung chuông lần thứ hai. Viên sĩ quan lại hiện ra.

- Hãy giao lại người này cho hai tên lính gác và bảo đợi lại gọi.

- Không, thưa Đức ông! Không, không phải hắn! - Bonacieux kêu lên - Không, tôi nhầm, đây là một người khác chẳng giống hắn chút nào! Quý ông đây là một người lương thiện.

- Mang tên súc sinh này đi! - Giáo chủ nói.

Viên sĩ quan nắm lấy cánh tay ông Bonacieux lôi ra phòng đợi ở đó ông lại gặp hai tên gác ngục.

Nhân vật mới đến sốt ruột đưa mắt nhìn theo Bonacieux.

- Họ gặp nhau rồi - Người này vội vã đến gần Giáo chủ và nói.

- Ai? - Đức ông tối thượng hỏi.

- Bà ta và hắn.

- Hoàng hậu và gã Quận công! - Richelieu kêu lên.

- Vâng.

- Và ở đâu?

- Ở Louvre.

- Ông chắc chứ?

- Hoàn toàn chắc ạ.

- Ai nói với ông?

- Bà De Lonoa, người toàn tâm toàn ý với Đức ông như ngài đã biết đấy.

- Tại sao bà ta không nói sớm hơn?

- Có thể hoặc vì tình cờ hoặc nghi ngờ, Hoàng hậu đã cho bà De Xuyadít ngủ ở phòng bà ta, và canh phòng bà ta suốt cả ngày.

- Hay lắm, chúng ta thua rồi. Hãy cố phục thù thôi.

- Tôi xin toàn tâm toàn ý giúp Đức ông, xin Ngài hãy bình tĩnh.

- Việc đó xảy ra như thế nào?

- Vào lúc mười hai giờ rưỡi đêm. Hoàng hậu đang cùng với các thị nữ của mình.

- Ở đâu?

- Trong phòng ngủ của Hoàng hậu.

- Được lắm.

- Đúng lúc ấy có người đến trao cho Hoàng hậu chiếc khăn tay của người thị nữ lo việc xiêm áo…

- Sau đó?

- Hoàng hậu lập tức tỏ ra hết sức xúc động, mặc dầu đã thoa phấn hồng lên, mặt bà vẫn tái đi.

- Rồi sao nữa? Sao nữa?

- Thế nhưng Hoàng hậu vẫn đứng dậy và lạc giọng bảo: "Thưa các bà, xin đợi tôi mươi phút, tôi sẽ quay lại". Và bà mở cửa khuê phòng rồi đi ra.

- Tạo sao bà De Lanoa không đến báo ngay cho ông?

- Lúc ấy còn chưa chắc điều gì cả. Vả lại, Hoàng hậu đã nói: "Xin các bà hãy đợi tôi", bà ấy không dám trái lệnh Hoàng hậu.

- Và Hoàng hậu ra khỏi phòng trong thời gian bao lâu?

- Bốn nhăm phút.

- Không một thị nữ nào theo hầu?

- Chỉ có mỗi Étxlêphania nương tử thôi.

- Tiếp đó Hoàng hậu có trở lại không?

- Có, nhưng để lấy một cái tráp nhỏ bằng gỗ hồng đào nạm vàng tên tắt của bà rồi lại ra ngay.

- Và sau đó khi trở lại bà ấy có mang cái tráp về không?

- Không.

- Bà De Lanoa có biết trong tráp đựng gì không?

- Có những nút kim cương Hoàng thượng tặng Hoàng hậu.

- Và bà ấy trở về không có cái tráp ấy?

- Vâng.

- Bà De Lanoa cho rằng bà ta đã trao cho Buckingham ư?

- Bà ấy tin chắc như thế.

- Sao lại thế?

- Suốt ngày hôm ấy, với tư cách thị nữ coi đồ nữ trang của Hoàng hậu, bà Lanoa đã tìm cái tráp, và tỏ ra lo lắng khi không tìm thấy nó, cuối cùng phải hỏi Hoàng hậu.

- Và Hoàng hậu bảo sao?

- Hoàng hậu đỏ bừng mặt lên và trả lời đêm trước làm vỡ một trong những nút đó, và bà đã sai đưa đến người thợ kim hoàn của mình để chữa lại.

- Phải qua đấy, để nắm chắc có đúng như thế hay không.

- Tôi đã qua đấy rồi.

- Thế nào? Người thợ kim hoàn bảo sao?

- Người này bảo chẳng nghe thấy nói gì cả.

- Tốt! Tốt! Rochefort, chưa hỏng hết đâu mà có lẽ… có lẽ mọi việc lại còn tốt đẹp hơn.

- Vấn đề là tôi không nghi ngờ thiên tài của Đức chí thượng…

- Lại không sửa chữa nổi những điều ngu xuẩn của nhân viên của mình, cô phải không?

- Đúng là điều tôi định nói nếu Đức ông để cho tôi nói nốt câu.

- Bây giờ ông có biết nữ Công tước De Chevreuse và Huân tước De Buckingham trốn ở đâu không?

- Không, thưa Đức ông, người của tôi không thể nói cho tôi biết mấy về điều đó.

- Thế mà tôi biết đấy.

- Thưa, chính Đức ông.

- Phải, ít nhất ta cũng không ngờ gì về điều đó. Bọn họ, người ở phố Vôgira số nhà 25, và người kia ở phố Đàn Thụ cầm số 75.

- Đức ông ngài có muốn tôi cho bắt giữ cả hai?

- Sợ sẽ quá muộn, họ sẽ đi mất.

- Không sao, cứ thử xem thế nào.

- Hãy lấy mười cận vệ của ta, và lục soát cả hai nhà.

- Thưa Đức ông, tôi đi đây.

Và Rochefort lao ra ngoài.

- Còn lại một mình, Giáo chủ nghĩ ngợi một lát và rung chuông lần thứ ba. Viên sĩ quan lại hiện ra. Giáo chủ bảo:

- Đem người tù vào đây.

Ông Bonacieux lại được dẫn vào. Giáo chủ ra hiệu cho viên sĩ quan rút lui rồi nghiêm nghị nói:

- Ông đã lừa ta.

- Tôi? - Ông Bonacieux kêu lên - Tôi dám lừa Đức ông ư?

Vợ ông khi đến phố Vôgira và phố Đàn Thụ cầm, không đến nhà mấy người buôn vải.

- Vậy nó đến nhà ai hở trời?

- Nó đến nhà nữ Công tước De Chevreuse và nhà Quận công Buckingham.

Bonacieux nhớ lại tất cả nói:

- Vâng, vâng, đúng vậy. - Đức ông có lý. Nhiều lần tôi đã nói với vợ tôi rằng dân buôn vải mà lại ở những nhà như thế thì lạ thật, những tòa nhà không có biển hiệu, và lần nào vợ tôi cũng chỉ cười trừ.

Rồi Bonacieux cũng quỳ sụp dưới chân Đức ông nói tiếp:

- Chà, thưa Đức ông, ngài chính là Giáo chủ rồi, vị Đại Giáo chủ, con người thiên tài mà cả thế giới phải trọng vọng.

Thắng một kẻ vô danh tiểu tất như Bonacieux là hết sức tầm thường, song không phải Giáo chủ không thấy vui vui trong phút chốc. Rồi, hầu như ngay tức khắc, một ý nghĩ mới nảy ra trong đầu ông, với một nụ cười răn rúm trên môi, ông chìa tay ra cho ông hàng xén và bảo ông ta:

- Đứng dậy đi, ông bạn của ta, ông là một con người tử tế.

- Giáo chủ bắt tay tôi. Tôi bắt tay một vĩ nhân! - Bonacieux kêu lên - Bậc vị nhân gọi tôi là bạn!

- Phải, ông bạn ạ, phải đấy? - Giáo chủ nói bằng cái giọng bậc cha mà đôi khi ông vẫn biết đường dùng, nhưng nó chỉ lừa được những người không biết ông - Và vì ông bị nghi oan, nên thế này nhé, ông phải được đền bù. Cầm lấy! Hãy cầm lấy cái túi một trăm đồng tiền vàng và hãy thứ lỗi cho ta.

- Thưa Đức ông, tôi mà lại thứ lỗi cho Đức ông ư?

Bonacieux do dự chưa dám cầm túi tiền, chắc hẳn sợ rằng món quà vờ vịt đó chỉ là một trò đùa, ông ta nói tiếp:

- Nhưng mà Đức ông được tự do bắt bớ tôi. Đức ông được thả cửa cho tra tấn tôi, được tùy thích cho treo cổ tôi. Đức ông là bậc chúa tể, nhẽ đâu tôi dám nói nửa lời, chứ đừng nói đến câu thứ lỗi của Đức ông. Thưa Đức ông, ngài không nghĩ thế ư?

- Ôi, ông Bonacieux thân mến của ta! Ông tỏ ra quảng đại thế đấy ta biết thế, và ta cảm ơn ông. Vậy thế này đi, ông cầm lấy cái túi này rồi ông đi đi, mà không quá bất bình đấy chứ?

- Thưa Đức ông, tôi ra về, lòng cực kỳ sung sướng.

- Vậy vĩnh biệt, đúng hơn là tạm biệt, bởi ta hy vọng chúng ta sẽ lại gặp nhau.

- Bất cứ khi nào Đức ông muốn, và tôi sẵn sàng đợi lệnh của Đức ngài.

- Sẽ thường xuyên đấy, cứ yên tâm, bởi ta thấy cực kỳ mê ly trong cách nói chuyện của ông.

- Ôi, thưa Đức ông.

- Tạm biệt, ông Bonacieux, tạm biệt!

Và Giáo chủ giơ tay ra hiệu, ông Bonacieux đáp lại bằng việc cúi mình sát đất, rồi ông giật lùi đi ra và khi ra tới phòng đợi.

Giáo chủ nghe thấy ông ta, trong cơn cuồng nhiệt, ráng sức kêu to: "Đức ông muôn năm! Đức ngài muôn năm! Đại Giáo chủ muôn năm!". Giáo chủ mỉm cười nghe sự biểu lộ ồn ào những tình cảm cuồng nhiệt của ông Bonacieux rồi khi tiếng hô của ông ta tắt hẳn ở phía xa, Giáo chủ nói:

- Tốt lắm, từ nay đây là một người sẵn sàng chết vì ta.

Và Giáo chủ chuyển sang khảo sát hết sức chăm chú tấm bản đồ thành La Rochelle, như ta đã nói, được trải rộng trên bàn, rồi lấy bút chì vạch một đường kẻ nơi con đê trứ danh sẽ đi theo và mười tám thâng sau sẽ bịt kín bến cảng của thành phố bị bao vây ông đang chìm sâu trong những suy tư chiến lược thì cửa mở và Rochefort đi vào.

Giáo chủ đứng phắt lên chứng tỏ tầm quan trọng của nhiệm vụ ông trao cho Bá tước, và vội hỏi:

- Thế nào?

- Thế đấy - Ông Bá tước nói - một thiếu phụ chừng hai sáu đến hai tám tuổi và một người đàn ông khoảng ba nhăm đến bốn mươi quả nhiên đã trọ, một người bốn ngày, người kia năm ngày, trong những ngôi nhà mà Đức ông đã chỉ rõ, nhưng người đàn bà đã đi khỏi đêm nay và người đàn ông sáng nay.

- Chính chúng rồi! - Giáo chủ kêu lên và nhìn đồng hồ - Bây giờ, quá muộn để đuổi theo rồi. Nữ Công tước đã ở Tours và Quận công ở Bulônhơn. Phải đuổi kịp họ ở London.

- Đức ông ra lệnh mới thế nào ạ?

- Không được lộ một câu chuyện đã xảy ra. Hoàng hậu phải được an toàn tuyệt đối. Bà ấy không được biết chúng ta biết được bí mật của bà ấy. Bà ấy phải tưởng rằng chúng ta đang điều tra một âm mưu nào đấy. Phái ông chưởng ấn Xêghiê đến chỗ ta.

- Thế còn con người ấy, Đức ông đã làm gì?

Con người nào? - Giáo chủ hỏi.

- Cái tay Bonacieux ấy?

- Ta đã làm tất cả những gì có thể làm. Ta đã biến hắn thành tên gián điệp theo dõi vợ hắn.

Bá tước nghiêng mình với tatư cách người nhận ra tầm siêu việt lớn lao của bậc thầy và đi ra.

Còn lại một mình, Giáo chủ lại ngồi xuống, viết một bức thư, và đóng dấu riêng của mình, rồi lắc chuông. Viên sĩ quan vào lẩn thứ tư.

- Gọi Víttray đến đây cho ta - Ông nói - và bảo hắn chuẩn bị một cuộc hành trình.

Một lát sau, người mà ông yêu cầu đã đứng trước mặt ông, đầy đủ ủng và đinh thúc ngựa.

- Víttray! - Giáo chủ nói - Ông đi thật nhanh đến London. Không được dừng lại giây lát nào ở dọc đường. Đưa thư này cho Milady. Đây là một ngân phiếu hai trăm đồng vàng, ông hãy qua thủ quỹ của ta để lĩnh tiền. Ông sẽ được lĩnh ngần ấy nữa nếu trong sáu ngày quay lại có mặt ở đây và hoàn thành tốt nhiệm vụt ta giao.

Phái viên không trả lời một câu, cúi mình, cầm thư và tấm ngân phiếu hai trăm đồng vàng rồi đi ra.

Đây là nội dung bức thư.

Milady,

Hãy có mặt ở buổi khiêu vũ đầu tiên Quận công De Buckingham tham dự. Ông ta sẽ có trong áo chẽn của mình mười hai nút kim cương, hãy lại gần ông ta và cắt lấy hai viên. Chiếm đoạt được mấy viên kim cương đó, báo cho ta ngay tức khắc.